Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
phần
5
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ
Trang
Tập 09
“Chánh biểu thử kinh năng
khế ư đương tiền cập vị lai chi xã
hội dã” (Điều này cho thấy kinh này có thể khế
hợp xã hội trong hiện tại và tương lai): Bất
luận nơi nào cần đến, bản kinh này đều
[đáp ứng]. “Đương
tiền khoa học phát đạt, nhân loại ưng cụ
chi tri thức di quảng” (Nay nhằm lúc khoa học phát triển, kiến thức
cần phải có của nhân loại càng rộng), kiến thức
mà chúng ta cần phải có ngày càng nhiều, đó có phải
là chuyện tốt đẹp hay không? Nói thật ra, đây
chẳng phải là chuyện tốt, người thật sự
tu đạo không cần phải học những thứ ấy.
Tổ tiên, cổ thánh tiên hiền đã sớm dạy chúng
ta [điều này] như Đạo gia đã nói: “Vị đạo nhật tổn,
vị học nhất ích” (vì đạo ngày càng hao tổn,
vì học vấn mà ngày càng tăng thêm), “vị học” là như ở đây [cụ Hoàng]
đã nói: “Hiện tại khoa học
kỹ thuật phát triển”, đó là “vị học”. Mỗi ngày quý vị phải
tăng trưởng những thứ ấy (kiến thức
khoa học), đó là về phương diện tri thức;
nhưng “vị đạo”
(vì đạo) thì mỗi ngày phải buông xuống, tất thảy
đều phải buông xuống thì đạo mới thành
tựu. Đạo là gì? Đạo là thứ mà bản thân quý
vị sẵn có. Hiện thời, đạo của quý vị
chẳng thể hiện tiền do quý vị có chướng
ngại, có phiền não, nhà Phật gọi nó là “nghiệp
chướng”. Chướng ngại nhiều vô lượng,
vô biên, vô tận, vô số, nhưng quy nạp lại, sẽ
không ngoài hai loại lớn: Phiền Não Chướng và Sở
Tri Chướng. Hai loại lớn này chướng ngại
quý vị kiến tánh, chướng ngại cái tâm thanh tịnh,
tâm bình đẳng của quý vị. “Thanh tịnh bình đẳng giác” là đạo, là tựa
đề của bộ kinh này, chúng ta tu đạo là tu thứ
này. Nếu tâm địa mỗi năm một thanh tịnh
hơn, tức là đạo nghiệp của quý vị tăng
trưởng. Bất luận tu học pháp môn hay tông phái nào
trong mười tông phái của Đại Thừa Phật
pháp Trung Quốc, trong chữ “pháp
môn”, “pháp” (法) là phương pháp, “môn” là môn đạo (門道: đường nẻo), “môn kính” (門徑: cửa nẻo, đường lối),
[do vậy, “pháp môn”] là cửa ngõ để trở về tự
tánh, trong kinh nói tám vạn bốn ngàn [pháp môn]. Tám vạn bốn
ngàn pháp môn nhằm đối trị tám vạn bốn ngàn
phiền não. Bồ Tát vô cùng tuyệt vời, có thể triển
khai Thập Thiện Nghiệp Đạo thành tám vạn bốn
ngàn tế hạnh (hạnh vi tế), công đức viên
mãn, thành Phật.
Đạt
đến “thanh tịnh, bình đẳng, giác” là cảnh giới
như thế nào? Nửa phần trước của tựa
đề kinh này nói về quả, nửa phần sau là nói
tới nhân, tu nhân chứng quả. Quả bậc nhất là
Đại Thừa, Đại Thừa là trí huệ, tức
trí huệ Bát Nhã vốn sẵn có trong tự tánh hiện tiền.
Trí huệ không do học mà có, tri thức thì học
được. Trí huệ chẳng do học được,
mà sanh từ cái tâm thanh tịnh “Vô
Lượng Thọ” là đức, “Trang Nghiêm” là tướng hảo. Quý vị thấy
đấy chẳng phải là như kinh Hoa Nghiêm đã nói hay
sao? “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và đức tướng của Như
Lai”! Tựa đề kinh này chính là trí huệ và đức
tướng của Như Lai. “Đại
Thừa” là trí huệ, “Vô Lượng
Thọ” là đức, “Trang Nghiêm”
là tướng, quý vị đạt được [những
điều này]. Vào lúc nào? Trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm của
chư Phật Như Lai, quý vị tu thành tựu cái tâm thanh
tịnh bình đẳng, trở về cõi Thật Báo Trang
Nghiêm. Tựa đề kinh này hay lắm, nhưng chẳng
phải do người hội tập tự lập một
đề mục như cư sĩ Vương Long Thư đặt
tên cho bản hội tập của mình là Đại A Di
Đà Kinh, bản của Ngụy Mặc Thâm có tựa đề
là Vô Lượng Thọ Kinh, họ đều tự mình lập
ra đề mục. Chỉ riêng đề mục [bản
hội tập] của cụ Hạ Liên Cư là hội tập,
thật sự chẳng thêm vào một chữ nào. Đấy
mới gọi là bản hội tập tiêu chuẩn, ngay cả
đề mục cũng là hội tập. Phân nửa
trước của đề mục là tựa đề
kinh của bản dịch đời Tống, nửa dưới
tức là “thanh tịnh, bình
đẳng, giác” lấy từ bản dịch đời
Hán, [tên gọi của kinh] do được hội tập
từ [tên gọi của] các bản dịch gốc mà thành,
nên ý nghĩa càng rõ ràng.
Tiếp
đó, sách viết: “Xã hội
tiến bộ, mỗi nhân sở kiên chi trách nhiệm bội
tăng, cố hàm ưng quảng học đa năng, cúc
cung tận tụy, tham gia kiến
thiết, tạo phước nhân dân, thực hiện nhân
gian Tịnh Độ” (Xã hội tiến bộ, trách nhiệm
của mỗi cá nhân tăng lên gấp bội. Vì thế, ai
nấy đều nên học rộng, biết nhiều, một
lòng tận tụy, tham gia xây dựng [xã hội] nhằm tạo
phước cho nhân dân, thực hiện cõi Tịnh Độ
trong nhân gian). Chúng ta đọc câu này, phải biết Như
Lai, Bồ Tát không đâu chẳng ứng hóa, biến hiện,
đúng như phẩm Phổ Môn đã nói “nên hiện thân gì để độ được,
bèn hiện thân ấy”, nên dùng phương thức nào để
có thể giúp đỡ, thành tựu chúng sanh, bèn dùng phương
pháp ấy, chẳng có một phương pháp nhất định.
Do vậy, đối với chuyện đức Phật
giảng kinh, thuyết pháp, chớ nên chấp trước,
hễ chấp trước là trật! Nếu quý vị chấp
trước, đức Phật nói Ngài không thuyết pháp,
chẳng thừa nhận Ngài thuyết pháp. Trong kinh Kim Cang
có ý nghĩa ấy. Đức Phật bảo: Nếu quý vị
nói đức Phật thuyết pháp, quý vị đã báng Phật.
Quý vị hủy báng Ngài, đức Phật chẳng thuyết
pháp, một chữ cũng không nói! Chẳng thuyết pháp mà
nói suốt bốn mươi chín năm, chúng ta phải hiểu
như thế nào đây? Thanh Lương đại sư đã
giảng rất hay, lời Phật nói là thật, chẳng giả.
Trong khi giảng tựa đề bộ kinh Tứ Thập
Hoa Nghiêm, Thanh Lương đại sư đã nói một
câu như thế này: “Hết thảy
các pháp do đức Thế Tôn đã nói trong bốn
mươi chín năm toàn là do cổ Phật đã nói”.
Đối với kinh giáo do cổ Phật đã nói, Thích Ca
Mâu Ni Phật chẳng thêm vào một chữ nào! Đức Phật
nói còn nghiêm cẩn hơn câu nói của Khổng lão phu tử:
“Thuật nhi bất tác, tín nhi
hiếu cổ” (thuật lại, chứ không trước
tác, tin tưởng, chuộng cổ). Phu tử chỉ nói “thuật lại, chứ không
trước tác”, còn đức Phật nói “chẳng thêm một chữ nào
vào kinh điển do cổ Phật đã nói”, tuyệt vời
lắm! Vì sao người ta có thể thành Phật, thành Bồ
Tát? Mấu chốt ở ngay chỗ này! Con người hiện
thời tâm ý bộp chộp, hời hợt, do nguyên nhân nào?
Nguyên nhân là nếu học thì phải sáng tạo, phải
phát minh, chính mình phải có thứ gì đó, chẳng phục
cổ nhân!
Cổ nhân
quả thật khác với chúng ta. Cổ nhân bội phục,
ngưỡng mộ, học theo cổ nhân, chưa từng
có ý nghĩ sáng chế cái mới, đi ngược với
lối tư duy khoa học hiện thời. Cách nghĩ này
của cổ nhân là đúng, hay cách nghĩ của người
hiện thời là đúng? Nếu chúng ta học thấu triệt
bộ Hoàn Nguyên Quán, sẽ biết thái độ của cổ
nhân là đúng, còn quan niệm của khoa học hiện thời
là sai lầm. Vì sao? Cổ nhân chứng đắc viên mãn, chứng
đắc giống như một khối cầu. Trên khối
cầu, quý vị chẳng thể thêm vào một điểm;
thêm vào một điểm nó sẽ chẳng tròn đều
nữa, mà cũng chẳng thể thiếu một điểm,
thiếu một điểm cũng chẳng tròn. Viên mãn, bất
tăng, bất giảm! Cổ Phật chứng điều
này, mà kim Phật cũng chứng đúng điều này. Do
vậy, “kim Phật như cổ
Phật chi tái lai” (Phật hiện tại giống
như cổ Phật trở lại), chúng ta hiểu rõ: Hết
thảy các pháp do đức Phật hiện thời nói ra
giống hệt như cổ Phật đã nói, bất
tăng, bất giảm. Người hiện thời có thể
hiểu ý nghĩa và chân tướng sự thật này không
nhiều. Vì thế, tôi cũng thường nói thái độ
tu học của các bậc đại thánh thế gian và xuất
thế gian là tấm gương tốt nhất cho hàng hậu
học chúng ta. Sở dĩ, chúng tôi đặc biệt chọn
bản chú giải của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
để học tập lần này, quý vị hãy đọc
kỹ bản chú giải của cụ Hoàng, có đúng là “thuật nhi bất tác” hay
chăng? Mỗi khi cụ giải thích một đoạn
kinh văn hay một câu kinh văn, đều dẫn kinh điển
làm chứng. Nếu không, lại dẫn lời giải
thích của các vị cổ đại đức. Cổ
đại đức cũng căn cứ trên kinh điển,
chính mình chẳng phát minh hay sáng tạo [nghĩa lý nào], chúng ta
phải hiểu điều này! Chúng ta phiền não tập
khí nặng nề như thế, phân biệt, chấp
trước nặng như thế, phải biết mình là hạng
phàm phu chính cống, làm thế nào để có thể chuyển
phàm thành thánh? Hãy học tập thánh nhân, thật thà, ngoan ngoãn
học, thật sự nghe lời. [Đối với những
giáo huấn trong] kinh giáo, chúng ta có làm được hay không?
Có thể giảng kinh hay chăng? Chẳng có điều kiện
này thì trí huệ và đức năng đều chẳng
phù hợp!
Xưa
kia, tôi đến Đài Trung thân cận thầy Lý, theo Ngài
học Phật, nhằm đúng lúc cụ mở khóa “kinh học”
để bồi dưỡng môn đệ học cách giảng
kinh. Cụ muốn tôi tham gia, tôi tự xét mình: Thiếu trí
huệ, thiếu năng lực! Tôi chẳng dám, tôi nói: “Con nghe
kinh, nghe lão nhân gia giảng kinh để học tập, con
nghĩ con chẳng có năng lực giảng kinh”. Thầy
cho tôi đến xem lớp học ấy, đến xem thì
đương nhiên là được rồi! “Hãy đến
xem thử một lần”, thầy dùng phương pháp thiện
xảo phương tiện ấy để dẫn tôi nhập
môn. Tôi thưa với thầy là chúng tôi chẳng thể giảng,
kết quả là nhận thấy phương pháp dạy giảng
kinh của thầy vốn là giảng chú giải của cổ
nhân. Đọc chú giải của cổ nhân không hiểu
thì giảng chú giải của người hiện thời,
xem chú giải bằng văn Bạch Thoại, cách giảng
như vậy đó! Tôi hỏi thầy: “Vì sao học theo
cách ấy?” [Thầy trả lời]: “Không còn cách nào, bất
đắc dĩ phải chọn lấy cái kém hơn”. Hiện
thời không có ai giảng kinh, chúng ta chẳng phát tâm thì làm
thế nào đây? Ai sẽ ra tay? Không có ai cả! Kinh giảng
sai, sai một chữ là không được rồi! Cổ
đại đức đã nói về chuyện giảng sai
một chữ; đây vốn là một công án trong Thiền
Tông: “Thác hạ nhất cá tự
chuyển ngữ, đọa ngũ bách thế dã hồ thân”
(Hạ lầm một chữ chuyển ngữ, đọa
làm thân chồn hoang năm trăm đời). Quý vị phải
gánh trách nhiệm. Quý vị giảng bậy một chữ,
sẽ đọa làm thân súc sanh năm trăm đời,
đáng sợ quá! Thầy bảo tôi: “Chúng ta chẳng có
tư cách giảng thì hãy giảng chú giải, giảng chú giải
của cổ nhân. Chú giải của cổ nhân viết bằng
văn chương Văn Ngôn, nay chúng ta dịch sang văn
Bạch Thoại, dùng biện pháp này. Hễ sai thì là lỗi
của tác giả, chứ ta không sai! Nếu văn
chương viết bằng Văn Ngôn đọc không hiểu,
chúng ta hãy xem văn Bạch Thoại hiện thời, chiếu
theo đó để giảng. Bỏ sót cũng chẳng sao,
chớ nên tự thêm những thứ gì của mình vào, hãy
để cổ nhân chịu trách nhiệm”. Chúng tôi bắt
đầu học giảng kinh từ chỗ này. Đến
khi nào quý vị có thể tự mình giảng? Khai ngộ! Chưa
khai ngộ thì hãy giảng [lời chú giải của]
người khác.
Phật
khai ngộ, trong các vị tổ sư đại đức,
có rất nhiều vị khai ngộ. Tuy khai ngộ, họ
vẫn chẳng rời khỏi Phật, Bồ Tát, hoàn toàn
dựa theo di giáo của Phật, Bồ Tát, chẳng có một
tí ý nghĩa mới mẻ nào! “Tín
nhi hiếu cổ, thuật nhi bất tác” là thái độ
chúng ta nên học theo, hãy nên sốt sắng học tập.
Học tập có thể thành tựu hay không? Tùy thuộc vào
tâm thái học tập của quý vị! Tâm thái như thế
nào mới có thể học thành công? Ấn Quang đại
sư nói rất hay: “Thành kính!” Ngài dạy: “Một phần thành kính được một phần
lợi ích, mười phần thành kính được
mười phần lợi ích”. Thành là gì? “Tôi rất
thành kính, tôi mười hai phần thành kính”; đó là tiêu chuẩn
của chính kẻ ấy, chẳng phải là tiêu chuẩn của
Phật, Bồ Tát, thánh hiền. Theo tiêu chuẩn của Phật,
Bồ Tát và thánh hiền, Thành là gì? Trong Độc Thư
Bút Ký (bút ký đọc sách), tiên sinh Tăng Quốc Phiên[1]
đã định nghĩa chữ “Thành”, ông ta giải thích như thế nào? “Nhất niệm bất sanh thị
vị thành” (Một niệm chẳng sanh được
gọi là Thành). Người ta có học vấn, có đức
hạnh, giảng tuyệt lắm, “niệm” [trong câu nói của Tăng Quốc Phiên] là
gì? Vọng niệm đấy! Hễ quý vị còn có vọng
niệm sẽ chẳng Thành! Nói theo Phật pháp, quý vị vẫn
khởi tâm động niệm; khởi tâm động niệm
là vô minh phiền não, Thành ở chỗ nào? Phân biệt, chấp
trước chính là gió to, sóng cả, phiền não nghiêm trọng.
Do vậy, đức Phật dạy chúng ta: Quý vị có thể
chẳng chấp trước hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian; đối với hết thảy
các pháp thế gian và xuất thế gian, mà quý vị chắc
chắn chẳng chấp trước, thì xin chúc mừng quý
vị, quý vị đã chứng quả A La Hán, đã vượt
thoát lục đạo luân hồi. Nếu lại tiến
thêm một bước nữa, lục căn tiếp xúc cảnh
giới lục trần, phân biệt cũng buông xuống, chẳng
còn phân biệt nữa. Thưa quý vị, buông chấp
trước xuống, đạt được tâm thanh tịnh,
tâm thanh tịnh sanh ra trí huệ; buông phân biệt xuống, đạt
được tâm bình đẳng. Tâm thanh tịnh là tâm Bồ
Tát, tâm bình đẳng là tâm Phật. Cuối cùng là khởi
tâm động niệm, tức là vọng niệm cũng
buông xuống, chẳng sanh ý niệm, chúc mừng quý vị,
quý vị đã thành Phật. “Vì
đạo ngày càng tổn giảm”, vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước thảy
đều phải buông xuống! Mỗi năm [vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước] một nhẹ hơn thì
đạo nghiệp của quý vị đang tiến bộ.
Nếu mỗi năm một nghiêm trọng hơn, quý vị
đã hoàn toàn tương phản, quý vị đang học đạo,
nhưng đạo ấy chẳng phải là Phật đạo,
mà là đạo gì? Phải biết đấy là lục
đạo, quý vị đang tu luân hồi trong lục đạo!
Tu luân hồi trong lục đạo có thiện, có ác; nếu
là thiện, sẽ là ba thiện đạo; nếu bất
thiện thì quý vị đang tu ba ác đạo, đều là
tu đạo, đều gọi là Đạo, chớ nên
không biết điều này! Chúng ta phải thấu hiểu
cẩn thận vì sao Bồ Tát ứng hóa trên thế gian, hãy
khéo học tập, nâng cao cảnh giới của chính mình. Thật
đấy! Đức Phật đã nói hai câu mà ai cũng
đọc được, nhưng quý vị chưa làm
được: “Cần tu Giới,
Định, Huệ, tức diệt tham, sân, si” (siêng tu
Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham, sân, si),
đó là công phu thật sự.
Nay chúng ta
phải nghiêm túc tự hỏi chính mình: Tịnh Nghiệp Tam
Phước không chỉ là nguyên tắc chỉ đạo tối
cao trong Tịnh Tông, mà còn là nguyên tắc chỉ đạo
của toàn thể Phật pháp. Điều thứ nhất là:
“Hiếu dưỡng phụ mẫu,
phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết,
tu Thập Thiện Nghiệp” . Chúng ta có làm được
hay không? Đó là gì? Là điều kiện cơ bản
để học Phật. Nếu chúng ta không trọn đủ,
sẽ chẳng có tư cách tiến nhập Phật môn. Tiến
nhập Phật môn đòi hỏi điều kiện, hạng
người nào vậy? Thiện nam tử, thiện nữ nhân.
Thiện là bốn câu [trên đây], bốn câu này là ba món căn
bản của Nho, Thích, Đạo. Hiếu thân tôn sư (hiếu
thuận cha mẹ, tôn trọng thầy) ở trong Đệ
Tử Quy, từ tâm chẳng giết trong Cảm Ứng
Thiên. Do vậy, quý vị có thể thật sự thực
hiện Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, và Thập
Thiện Nghiệp, thật sự làm được, sẽ
hội đủ tiêu chuẩn “thiện nam tử, thiện
nữ nhân”. Có điều kiện này mới có thể tiến
nhập Phật môn, thọ Tam Quy, Ngũ Giới. Phước
thứ hai chính là đệ tử Phật môn chân chánh: “Thọ trì Tam Quy, đầy
đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”, chẳng
đủ điều kiện trên đây sẽ chẳng có tư
cách thọ lãnh [giới pháp]; nhưng nay thì sao? Nay chúng ta
không đủ điều kiện mà vẫn thọ!
Chương Gia đại sư bảo tôi: Thọ giới
để làm gì? Thọ để học! Ngàn vạn phần
chớ nên nghĩ mình đã thọ giới, đã đắc
giới, không thể nói như vậy! Nói như vậy
chính là gì? Đại vọng ngữ. Đại vọng ngữ
vì quý vị chưa đạt được mà tưởng
đã đạt được!
Người
nói câu này sớm nhất chính là Ngẫu Ích đại sư.
Ngẫu Ích đại sư sống vào cuối đời
Minh, Minh mạt Thanh sơ (cuối đời Minh, đầu
đời Thanh), tuy là Tổ Sư Tịnh Độ Tông, tức
Tổ Sư đời thứ chín, nhưng Ngài có công phu rất
sâu nơi giới luật. Giống như Hoằng Nhất
đại sư trong thời cận đại, mọi
người đều biết Hoằng Nhất đại
sư nghiên cứu giới luật. Vào thời ấy, Ngẫu
Ích đại sư nghiên cứu giới luật, Ngài
cũng trước tác về giới luật rất nhiều.
Ngài bảo: “Tại Trung Quốc, từ triều đại
Nam Tống trở đi không có tỳ-kheo!” Tỳ-kheo là tỳ-kheo
trên danh tự, hữu danh vô thực! Không giữ được
giới tỳ-kheo, nên chẳng có tỳ-kheo. Muốn truyền
giới xuất gia, tức là truyền xuất gia tỳ-kheo,
tỳ-kheo-ni giới, tối thiểu phải có năm vị
tỳ-kheo mới có thể truyền. Do chẳng có năm tỳ-kheo
truyền giới, nên người thọ giới chẳng
thể đắc giới. Ngài nói từ triều đại
Nam Tống về sau chẳng có [tỳ-kheo], danh tự tỳ-kheo
chẳng phải là thật sự có. Do vậy, khuyên mọi
người: Quý vị có thể đến thọ giới,
nhưng biết đó là hình thức, thọ rồi phải
học. Thật sự học một điều sẽ
đắc một điều vì quý vị làm được.
Người thọ Ngũ Giới rất nhiều, rất
phổ biến, người thọ Tại Gia Bồ Tát giới
cũng không ít, nhưng Ngũ Giới có giữ được
hay chăng? Đừng nói chi khác! “Chẳng nói dối” có làm
được hay chăng? Thường nói những câu nhảm
nhí, dù hữu ý hay vô ý, tức là chẳng giữ [giới “bất
vọng ngữ”]! Không sát sanh, không trộm cắp, chẳng
tà dâm, quý vị hãy suy nghĩ đã làm được điều
nào hay chưa? Vẫn cứ nói tôi thọ Mãn Phần Ngũ
Giới (thọ đủ năm giới), Mãn Phần Ưu
Bà Tắc, Ưu Bà Di! Ngũ Giới làm không được,
Bồ Tát Giới càng khỏi cần phải nói nữa. Do
vậy, hữu danh vô thực, chúng ta phải biết điều
này. Kiếm đủ mọi cách lừa gạt chư Phật,
Bồ Tát, [mà vẫn ra rả]: “Tôi chuyện gì xấu cũng
đều chẳng làm!” Quý vị thọ giới mà làm không
được, tội ấy rất nặng. Cách kết tội
ra sao? Đã phạm tội gì? Phá hoại hình tượng Phật
giáo, quý vị có thừa nhận hay chăng? Người ta
nhìn vào Phật giáo, quý vị thấy Phật giáo đồ
giống như vậy, người ta đâu có chửi quý
vị, mà chửi toàn bộ Phật giáo, ngay cả chư Phật,
Bồ Tát đều bị chửi lây, phải hiểu
điều này!
Tín đồ
tại gia không giữ được Thập Thiện! Thập
Thiện, Tam Quy, Ngũ Giới đều làm không được.
Các đệ tử xuất gia không giữ được
Sa Di Luật Nghi! Không chỉ Sa Di Luật Nghi, mà Tam Quy, Ngũ
Giới, Thập Thiện cũng làm không được. Quý
vị nói xem: Phật giáo lẽ nào chẳng suy? Phật giáo
suy ở chỗ nào? Chẳng có giới luật! Quý vị thấy
Phật pháp là “tín, giải, hành, chứng”; quý vị có tín, có
giải, nhưng chẳng có hành, khoan bàn tới chứng. Không
có hành, làm sao có chứng? Chỉ có tín giải, tín giải biến
thành học thuật, biến thành Phật học. Có hành và có
chứng mới biến thành học Phật. Học Phật
và Phật học khác nhau! Phật học là có thể nói,
nhưng chẳng thể hành; học Phật là có thể nói
và có thể hành. Vì thế, trong thời đại hiện
tại, tìm một thiện tri thức phải đến
nơi đâu để tìm? Tìm không ra! Vì thế, thầy mới
dạy tôi, thuở thầy Lý tại thế, lão nhân gia hết
sức khiêm hư, tôi bái sư, hành lễ bái sư để
xin học với Ngài. Lão nhân gia bảo tôi: “Tôi chỉ có thể
dạy anh năm năm”. Sau năm năm sẽ làm như
thế nào? Cụ giới thiệu một vị thầy,
thầy của Ngài là Ấn Quang đại sư. Ấn
Quang đại sư đã khuất, Văn Sao vẫn còn. Hằng
ngày, quý vị đọc Văn Sao là thân cận Ấn Quang
đại sư. Ghi nhớ giáo huấn của Ấn Quang
đại sư, sốt sắng nỗ lực thực hiện
thì quý vị sẽ là học trò của pháp sư Ấn
Quang. Mở ra một cửa, vì hiện thời tìm không
được một vị thiện tri thức chân chánh,
nhưng cổ nhân thì có, hãy làm tư thục đệ tử
của cổ nhân. Thầy giới thiệu tôi làm tư thục
đệ tử của Ấn Quang đại sư. Tôi giảng
kinh, dạy học tại các nơi ở hải ngoại
nhiều năm như thế, chẳng dám tự nhận
mình là thầy, chưa đủ tư cách, tôi cũng học
theo phương pháp của thầy, giới thiệu một
vị thầy cho mọi người. Tôi giới thiệu
ai vậy? Thích Ca Mâu Ni Phật và A Di Đà Phật là hai vị
thầy tốt đẹp, theo các Ngài chắc chắn tốt
đẹp lắm!
Thầy ở nơi đâu? Trong Vô
Lượng Thọ Kinh và A Di Đà Kinh. Thâm nhập một
môn, trường thời huân tu. Xem kinh không hiểu thì hãy
tìm trợ giáo (tutor), tìm người giúp đỡ! Trợ
giáo là ai? Người chú giải kinh là trợ giáo. Xem kinh Hoa
Nghiêm không hiểu, hãy tìm Thanh Lương đại sư, tìm
Lý Trưởng Giả, chú giải của các Ngài giúp chúng ta
học tập. Xem Di Đà không hiểu, tìm Liên Trì đại
sư, Ngài có bộ Sớ Sao, Ngẫu Ích đại sư có
bộ Yếu Giải, U Khê đại sư có Viên Trung Sao. Trước
khi bản [hội tập] này ra đời, thông thường
người học kinh Vô Lượng Thọ đều học
theo bản dịch của Khang Tăng Khải. So trong
năm bản dịch gốc, bản của ngài Khang
Tăng Khải hay nhất, lưu thông cũng rất rộng.
Đời Tùy, Huệ Viễn đại sư[2]
có chú giải. Sư có pháp danh hoàn toàn giống với Sơ
Tổ Tịnh Độ Tông. Lô Sơn Huệ Viễn đại
sư là tổ sư đời thứ nhất của Tịnh
Độ Tông Trung Quốc. Do Huệ Viễn đại
sư đời Tùy trùng tên, trong Phật môn gọi Ngài là Tiểu
Huệ Viễn. Nghe nói Tiểu Huệ Viễn liền biết
ngay là Huệ Viễn đại sư đời Tùy, hãy
đọc bản chú giải của Ngài. Khi chúng tôi học
kinh Vô Lượng Thọ tại Đài Trung, nhằm lúc bản
này vẫn chưa truyền đến Đài Trung, thầy
Lý giảng Vô Lượng Thọ Kinh bằng bản chú giải
của ngài Tiểu Huệ Viễn. Chú sớ của cổ
nhân giúp đỡ các đồng học. Hiện thời có
nhiều công cụ hơn, dùng máy thâu âm hay máy thâu hình để
giảng giải nhằm giúp đỡ người đời
sau, quá sức thuận tiện! Chúng ta
thành lập một đạo tràng, quý vị phải ghi nhớ,
Ấn Quang đại sư là một vị nhất đại
tổ sư có đức hạnh, có trí huệ, lão nhân gia dạy
chúng ta: Trong tình hình xã hội hiện thời, kiến lập
đạo tràng hãy trọng phẩm chất, đừng coi
trọng số lượng, tức là “trọng thực chất,
đừng coi trọng hình thức”. Đạo tràng chớ
nên to lớn; thảo am nhỏ là lý tưởng nhất.
Chúng thường trụ không nên hơn hai mươi người,
dễ duy trì. Các đồng học chí đồng đạo
hợp ở cùng một chỗ cộng tu, một
phương hướng, một mục tiêu, quyết định
cầu sanh Tịnh Độ. Thảo am nhỏ ở
được hai mươi người, người
trong ấy tâm đều thanh tịnh. Nếu dựng một
ngôi chùa lớn, giàu có, lộng lẫy, nguy nga, có bao nhiêu
người sẽ dòm ngó, nghĩ cách tranh đoạt!
Thích Ca
Mâu Ni Phật thấy rõ ràng, cho nên, thuở Phật tại
thế, Ngài giảng kinh, thuyết pháp bốn mươi
chín năm, chẳng dựng một đạo tràng nào, ngay
cả thảo am nhỏ cũng chưa hề dựng. Vì
sao? Nay chúng ta hiểu rõ: Lập đạo tràng sẽ có kẻ
khởi ý niệm ác. Cái gì cũng đều chẳng có, ba
y một bát, trưa ăn một bữa, đêm nghỉ
dưới cội cây, quý vị còn tranh đoạt gì nữa?
Vì thế, mỗi cá nhân đều thanh tịnh, chẳng tranh
chấp. Thị hiện hay quá! Thị hiện từ bi đến
cùng cực, Ngài thật sự chịu khổ thay cho chúng
sanh. Vì sao làm như vậy? Nêu gương cho người đời sau xem. Nói thật ra, thân thể chúng
ta trong hiện thời chẳng thể sánh với thân Phật,
ngay cả đệ tử Phật, chúng ta cũng chẳng
thể sánh bằng. Người ta là năm này qua tháng khác,
đêm ngồi dưới cội cây, chẳng ngán gió táp,
mưa tạt. Kinh bảo là “kim
cang bất hoại thân”, người ta có đức
hạnh. Nay chúng ta không làm được, nay chúng ta nghỉ
một đêm dưới gốc cây, nói chung là ngày hôm sau phải
nằm phòng cấp cứu, chẳng có đức hạnh
như người ta! Tướng chuyển theo tâm, tâm
người ta thanh tịnh, chúng ta chưa đạt đến
mức độ thanh tịnh ấy. Vì vậy, chớ nên
không biết điều này! Trong xã hội hiện thời,
chúng ta càng chẳng thể rời khỏi xã hội, mỗi
ngày nghiêm túc học tập trong tiểu đạo tràng, đem
công đức học tập hồi hướng cho xã hội,
hồi hướng cho hết thảy chúng sanh khổ nạn,
tiêu tai miễn nạn, chuyện này có thật hay không? Thật
đấy! Trong kinh, đức Phật đã nói rất tuyệt:
“Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”. Có một nhóm người như thế,
dùng cái tâm thanh tịnh hằng ngày cầu nguyện, chân
thành cầu nguyện sẽ sanh ra hiệu quả; đấy
là đối với xã hội. Trong xã hội có kẻ không
tin, xưa nay, trong ngoài nước có rất nhiều sự
tích linh nghiệm, hiện tại có hay không? Hiện tại
vẫn có. Dần dần khoa học cũng chậm chạp
ấn chứng cho chúng ta, chứng tỏ cảnh chuyển
theo tâm, chứng minh tướng do tâm sanh, kẻ thật sự
có đức hạnh sẽ thật sự có cảm ứng.
Chẳng có đức hạnh thì sao? Chẳng có đức
hạnh thì cũng phải tham dự các sự nghiệp phước
lợi xã hội. Các tôn giáo ngoại quốc rất coi trọng
việc này, họ lập viện dưỡng lão, cô nhi viện,
dục ấu viện (preschool), bệnh viện, làm rất
nhiều, tôi cũng thấy rất nhiều,
họ nhiệt tâm thực hiện các sự nghiệp từ
thiện phước lợi xã hội. Trong Phật môn, những
chuyện này là làm kèm thêm, chuyện thật sự phải
làm là tự nâng cao cảnh giới của chính mình, thành tựu
đạo đức và trí huệ, quý vị mới có thể
thật sự giúp chúng sanh khổ nạn,
thật sự có năng lực hóa giải tai nạn.
“Vãn cận, Thái Hư pháp sư
đề xướng nhân gian Tịnh Độ” (gần
đây, pháp sư Thái Hư đề xướng nhân gian Tịnh
Độ), vị này cũng là người sống trước
chúng tôi một thế hệ, có khá nhiều cống hiến
đối với Phật giáo Trung Quốc, cũng có không
ít trước tác. “Tằng
tường dẫn Vô Lượng Thọ Kinh văn cú”
(từng trích dẫn cặn kẽ nhiều câu trong kinh Vô
Lượng Thọ). Trong khi diễn giảng, Sư trích dẫn
kinh văn từ kinh Vô Lượng Thọ rất nhiều. “Cái dĩ
thử kinh song chiếu thế xuất thế gian” (ấy
là vì kinh này soi rọi cả thế gian lẫn xuất thế
gian), trong bộ kinh này, đức Phật
giảng về pháp thế gian không ít, mà giảng pháp xuất
thế gian cũng rất nhiều. “Tường thị Chân Tục nhị đế”
(chỉ bày cặn kẽ Chân Đế và Tục Đế),
đức Phật nương theo Nhị Đế để
thuyết pháp, đó là một tổng nguyên tắc của giảng
kinh, giáo học. “Đế”
(諦) là gì?
Nói theo cách phổ thông hiện thời, Đế là chân lý,
chân thật, thực tại. Có hai thứ [chân lý]: Một là
Tục Đế, hai là Chân Đế. Tục Đế là pháp
thế gian, Chân Đế là Phật pháp, thế gian và xuất
thế gian đều quan tâm. Chân Đế là sau khi minh tâm
kiến tánh, quý vị đã thấy được Thật
Tướng của các pháp, những người tầm thường trong thế gian
chúng ta rất khó lý giải điều này. Thật Tướng
là thật, nhưng chúng ta chưa tu học đến trình
độ ấy, nên đức Phật chẳng nói chuyện
này. Ngài giảng về pháp thế gian, cũng có nghĩa là
đức Phật rất thông hiểu những kiến thức
thông thường. Đức Phật nói về những kiến
thức thông thường của người thế gian, chúng
ta rất dễ tiếp nhận, rất dễ hiểu.
Ngài dạy “cha nhân từ, con hiếu thảo, anh nhường,
em kính”, chúng ta nghe rất vui vẻ. Đó là Thế Tục Đế,
chẳng phải là Chân Đế. Chân Đế giảng “vạn pháp đều không”, chúng
ta sẽ không hiểu, chúng ta thấy rõ hết thảy các
pháp hiện tiền, cớ sao là không? Lẽ nào Phật là
không? Tôi không hiểu điều này! Đó là Chân Đế,
thuộc về Triết Học cao cấp, người bình
thường chẳng thể hiểu. Đức Phật nhìn
vào căn tánh của chúng sanh, thấy quý vị thuộc trình
độ nào bèn thuyết pháp [đến mức đó]. Vì
thế, trong toàn bộ Phật pháp, Tiểu Thừa toàn giảng
về Tục Đế, Chân Đế cũng nói, nhưng rất
ít. Trong pháp Đại Thừa, Chân Đế và Tục
Đế đều giảng, ngay cả trong pháp Nhất
Thừa [cũng như thế]. Pháp Nhất Thừa là Pháp
Hoa và Hoa Nghiêm, trong ấy vừa có Tục Đế, vừa
có Chân Đế, không hoàn toàn giảng Chân Đế.
“Phù Tịnh Tông chi diệu, tại
ư bất ly Phật pháp, nhi hành thế pháp, bất phế
thế pháp, nhi chứng Phật pháp” (Điều hay tuyệt
của Tịnh Tông là chẳng lìa Phật pháp mà hành pháp thế
gian, chẳng bỏ pháp thế gian mà chứng Phật pháp).
Đây là chỗ thù thắng của Tịnh Tông, đúng là xảo
diệu. Tiếp đó, sách viết: “Nhân trì danh chi pháp, tối vi phương tiện, tùy
địa khả tu” (do pháp trì danh thuận tiện nhất,
chỗ nào cũng có thể tu được), có thể tu
bất cứ lúc nào, tu ở bất cứ chỗ nào, một
câu Phật hiệu trong tâm, phải thật sự làm
được tiêu chuẩn “nhiếp
trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối” như
Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói, thật sự, chẳng
giả. Giữ vững lục căn chẳng cho chúng rong
ruổi theo bên ngoài, “phi lễ
vật thị, phi lễ vật thính” (phi lễ chớ
nhìn, phi lễ chớ nghe), khống chế được!
Lục căn chẳng chạy theo cảnh giới lục
trần. Đối với phàm phu, cảnh giới lục
trần bên ngoài dẫn dụ lục căn, quý vị bèn tạo
nghiệp; thật sự có thể khống chế nó, thì có
thấy cảnh giới bên ngoài hay không? Thấy chứ!
Nhưng thấy ra sao? Chẳng để trong lòng, thấy
mà như không thấy, nghe mà chẳng nghe, chẳng bận
lòng, đó gọi là công phu. Trong tâm là gì? Trong tâm là A Di Đà
Phật, trừ A Di Đà Phật ra, cái gì cũng đều
chẳng có. Trò chuyện trao đổi với quý vị,
đó là pháp thế gian, nhưng Phật hiệu trong tâm chẳng
gián đoạn. Chẳng phải là nói tôi có chuyện phải
làm, tôi buông niệm Phật xuống, đó
là gì? Đó là công phu vẫn chưa đủ, chưa đạt,
người mới học mới phải làm như vậy.
Đặc biệt là khi phải dùng đến đầu óc
suy nghĩ, quý vị tạm thời buông Phật hiệu xuống
để làm việc. Sau khi làm xong xuôi, lại niệm
Phật. Nếu đã đạt Niệm Phật tam-muội,
sẽ chẳng có chướng ngại, trong mười hai
thời Phật hiệu chẳng gián đoạn, làm
được, chứ chẳng phải là không làm
được!
Xưa kia,
tôi ở Đài Loan, vào dịp Tết năm nọ, có một
vị lão cư sĩ đến chúc Tết tôi, cụ
cũng là tín đồ đã lâu của Hoa Tạng Đồ
Thư Quán. Bà cụ đến bảo tôi: “Bạch pháp
sư! Nay trong lòng tôi rất thanh tịnh, chuyện gì tôi
cũng đều buông xuống, nhưng không thể bỏ
cháu nội được!” Công phu niệm Phật của
bà cụ rất tốt, không buông cháu nội xuống
được, tôi nói với cụ: “Bà hãy tưởng A Di
Đà Phật là cháu bà, bà sẽ thành công!” Bà cụ chẳng
nghĩ đến cháu, chẳng nghĩ tới, nhưng
trong tâm thật sự có cháu, thời thời khắc khắc
đều có bóng dáng của đứa cháu, A Di Đà Phật
thường treo nơi miệng, trong tâm là cháu. Do vậy, tôi
dạy bà cụ một phương pháp để thay đổi:
“Hãy đem cháu bà đổi thành A Di Đà Phật, bà sẽ
thành công!” Trong lòng thật sự có [A Di Đà Phật]! Đó
là niệm Phật! “Ức Phật,
niệm Phật, hiện tiền, đương lai, tất
định kiến Phật” (nhớ Phật, niệm Phật,
hiện tiền, tương lai, nhất định thấy
Phật), Đại Thế Chí Bồ Tát nói như thế. Nếu
chúng ta một lòng một dạ nghĩ tới thế giới
Cực Lạc, mong vãng sanh, chẳng vãng sanh sẽ phiền
phức lớn lắm, chẳng vãng sanh sẽ phải luân
hồi trong lục đạo. Luân hồi trong lục đạo
đúng là khổ quá, chẳng muốn luân hồi nữa! Chẳng
còn tiêm nhiễm những thứ trong lục đạo, tâm
quý vị bèn định, cái gì cũng đều chẳng
nghĩ tới. Mỗi ngày ăn no ba bữa là được
rồi, chuyện gì cũng không phải truy tìm, có thể ăn
đủ no, quần áo có thể chống lạnh là
được rồi, có một chỗ nhỏ bé để
ngủ là đủ rồi, cần chi nữa? Quý vị
đã biết đủ, biết đủ thường vui.
Tâm chẳng có mảy may gánh nặng nào, thân lẫn tâm đều
chẳng có áp lực, quý vị nói có tự tại lắm
hay không? Trong tâm thật sự có Phật, công phu như vậy
nhanh là một năm, chậm thì tối đa là ba năm, quý
vị sẽ đạt được Niệm Phật tam-muội.
Niệm Phật tam-muội là gì? Tâm thanh tịnh. Trong tựa
đề của kinh Vô Lượng Thọ có “thanh tịnh”, quý vị đã
đạt được. Tâm thanh tịnh sanh trí huệ, chẳng
còn sanh phiền não nữa. Khi nào sẽ vãng sanh? Trong cảnh
giới ấy, muốn vãng sanh lúc nào sẽ vãng sanh khi ấy;
quý vị vừa nghĩ, A Di Đà Phật liền đến.
Có thọ mạng, nhưng chẳng cần thọ mạng nữa,
đi ngay bây giờ được chăng? Được!
Thông tin của quý vị gởi sang A Di Đà Phật, ở
nơi đây vừa khởi niệm, A Di Đà Phật liền
biết ngay, Phật đến tiếp dẫn. Chẳng có
công phu ấy sẽ không được, nghĩ cách nào Phật
cũng chẳng đến, vì sao nghĩ mà Phật không
đến? Do quý vị vọng tưởng, nên Phật
không đến, vẫn chưa buông những thứ tạp
nhạp trong thế gian xuống được! Thật sự
buông xuống sẽ có thể ra đi bất cứ lúc nào!
Thế giới này khổ ngần ấy,
chịu khổ nhiều năm ngần ấy, còn có gì tốt
đẹp để lưu luyến nữa? Sanh về thế
giới Cực Lạc vĩnh viễn lìa khổ, được
vui. Vì sao chẳng làm? Nói thật ra là vì tham sống sợ
chết! Nếu có Niệm Phật Đường nào mở
ở đây, bảo mọi người: “Đến chỗ
tôi niệm Phật, chắc chắn bảy ngày sẽ vãng sanh”,
quý vị thấy có ai dám tới hay không? Không dám tới! Mỗi
ngày cầu vãng sanh, nhưng bảy ngày chắc chắn vãng sanh
thì chẳng ai dám tới Niệm Phật Đường ấy!
Giả trất, chẳng thật! Miệng đúng, tâm sai!
Sau khi chúng ta hiểu rõ, phải thật sự làm, các đạo
lý đều hiểu rõ ràng, minh bạch.
Quả
thật là chẳng lìa Phật pháp mà hành pháp thế gian. Pháp
thế gian và Phật pháp chẳng có một chút chướng
ngại nào! Bất luận làm việc gì, trong tâm Phật hiệu
chẳng gián đoạn, đó là “công phu thành phiến”, sanh
vào Phàm Thánh Đồng Cư Độ của Tây
Phương Cực Lạc thế giới; nhưng [sanh vào
cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng] chẳng sao cả!
Đức Thế Tôn đã nói minh bạch: Sanh đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới liền viên chứng
bốn cõi. Quả đức thù thắng này đến
đâu để cầu? Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn,
chỉ có một môn này là có, những môn khác chẳng có. Vì
thế, gặp gỡ pháp môn rất khó có này, rất chẳng
dễ dàng! Đã gặp mà không chịu tu, ở ngay trước
mặt mà bỏ lỡ, tội ấy rất nặng, có lỗi
với chính mình, có lỗi với chư Phật, Bồ Tát,
có lỗi với cha mẹ, tổ tiên; bởi lẽ, quý vị
vãng sanh sẽ thành Phật, người nhà của quý vị
sẽ đắc độ. Bất luận họ ở
trong đường nào, quý vị đều thấy rõ
ràng, họ gặp khổ nạn, quý vị có thể giúp họ.
Họ có duyên với quý vị, cho nên họ có cảm, quý vị
sẽ có ứng. Họ đang chịu khổ, chịu nạn,
mong mỏi có người giúp đỡ. Đó chính là Cảm.
Quý vị có duyên với họ, lập tức nhận
được tin tức ấy, thật sự có thể giúp
đỡ họ. Chẳng phế pháp thế gian, mà chứng
Phật pháp. “Chẳng phế” và “chẳng lìa” có cùng một
ý nghĩa. Thế pháp (pháp thế gian) là gì? Thưa cùng quý vị,
Đệ Tử Quy là thế pháp, Cảm Ứng Thiên là thế
pháp, Thập Thiện Nghiệp cũng là thế pháp. Quý vị
thấy đó, vận dụng ba thứ này ngay trong cuộc
sống hằng ngày của chính mình, vận dụng ngay vào
công việc của chính mình, dùng ngay trong sự đãi
người tiếp vật của chính mình, thế pháp
đấy! Nêu gương tốt cho người thế
gian. Trong tâm là A Di Đà Phật thì sẽ thành công. Thế
pháp không chỉ chẳng chướng ngại quý vị, mà
quý vị còn tích lũy công đức nơi ấy, nâng cao
phẩm vị khi sanh về thế giới Cực Lạc.
Quý vị làm bao nhiêu chuyện tốt, nêu gương rất
tốt trong xã hội. Tâm quý vị thanh tịnh, người
ta nhìn không thấy, nhưng Đệ Tử Quy, Cảm Ứng
Thiên, Thập Thiện Nghiệp của quý vị người
ta sẽ thấy, để thay đổi phong thái xã hội
hiện thời cần phải có những điều này!
Tổ tiên để lại cho chúng ta những thứ tốt
đẹp, yêu thương con cháu dường ấy, ân sâu
đại đức khôn sánh! Nay chúng ta là con cháu bất hiếu
trong đời này, chẳng hiểu lòng yêu thương của
tổ tiên, gạt bỏ giáo huấn của họ sang một
bên, lại còn chê họ lỗi thời, tâm thái như vậy,
quý vị nói xem: Có tránh khỏi chẳng bị báo ứng
hay chăng? Chúng ta đúng là khó có, trong thời đại
này và trong lứa tuổi như vậy mà được gặp
gỡ [pháp môn này], mới giác ngộ, mới hiểu rõ, nhanh
chóng quay đầu sốt sắng học tập, tự lợi,
lợi tha, lợi tha là tự lợi. Bản thân quý vị
chẳng sốt sắng học tập, sẽ không có cách
nào lợi tha. Chính mình thật sự học, sẽ thật
sự đạt được lợi ích, người
khác trông thấy sẽ học theo, [do thấy chúng ta có] biểu
hiện tốt đẹp mà!
Tôi nhớ
năm xưa chúng tôi ở Mỹ, hàng xóm gần đó đều
là người Mỹ. Tôi sống trong một căn nhà nhỏ
đối diện nhà Hàn Quán Trưởng. Những người
hàng xóm rất hâm mộ chúng tôi. Có một buổi sáng, chúng
tôi ra ngoài tản bộ, bên ngoài là công viên; những người
hàng xóm trông thấy tôi, bèn nói họ thấy chúng tôi mỗi
ngày đều vui vẻ dường ấy, khuôn mặt tràn
đầy dáng vẻ tươi cười, hỏi: “Các vị
làm nghề gì vậy? Vì sao vui sướng ngần ấy?” Chúng
tôi bảo họ: “Chúng tôi niệm Phật”. Họ hỏi:
“Niệm Phật là gì?” Có cơ hội giáo dục rồi! “Niệm
Phật đích thực là học điều gì?” Chúng tôi bảo
họ: “Niệm Phật chính là học trí huệ”. Họ
nghe xong, [bèn nói] điều này cần thiết, tôi cũng
muốn học. Tôi nói: “Thứ hai là trường thọ,
thứ ba là vui sướng”. Họ nói: “Chúng tôi cần [những
điều ấy]” Bọn họ đều là tín đồ
Cơ Đốc, mỗi Chủ Nhật đều đi
nhà thờ, tôi bèn khuyên họ: “Ngày thứ Bảy các vị
hãy đến Phật đường của chúng tôi để
học trí huệ, học trường thọ, học vui
sướng. Ngày Chủ Nhật, quý vị đi nhà thờ,
chẳng vi phạm [luật đạo]. Ở chỗ quý vị
có Chúa, còn chúng tôi ở đây có thầy”. Đức Phật
là thầy của chúng ta, Ngài chẳng phải là thần. Đúng
là sau đấy, dần dần người ta đến
đông hơn, những vùng phụ cận đều đến.
Bởi lẽ, họ quan sát trước, quan sát mấy
tháng rồi mới tiếp cận chúng tôi, từ từ họ
hiểu biết. Vì lẽ đó, tôi nói: Tín ngưỡng tôn
giáo và học Phật chẳng xung đột. Quý vị tín
ngưỡng tôn giáo, thần là cha của quý vị, có quan hệ
cha con hoặc chủ tớ với quý vị. Quý vị đến
chỗ chúng tôi, có quan hệ thầy trò với Thích Ca Mâu Ni
Phật. Ở nhà, quý vị có cha mẹ, ở trường
có thầy, làm sao xung đột cho được? Họ nghe
nói rất vui thích, chẳng xung đột mà!
Tiếp
đó, cụ Hoàng nhắc nhở chúng ta: “Tùy địa khả tu, hà đãi độn nhập
sơn lâm, tùy thời khả niệm, bất lao bế quan
yến tọa” (tu ở bất cứ chỗ nào cũng
được, chẳng cần phải trốn vào núi rừng;
niệm bất cứ lúc nào cũng được, chẳng
nhọc công bế quan, ngồi yên), ý nói: Chẳng cần phải
tìm một A Lan Nhã. A Lan Nhã (Aranya) là tiếng Phạn, tức
là tìm một nơi thanh tịnh. [Pháp môn Tịnh Độ]
có thể tu trong bất cứ lúc nào. Hương Cảng là
nơi phồn hoa nhất, có thể tu được hay
chăng? Có thể! Chẳng bị trở ngại gì, [pháp
môn Tịnh Độ] thuận tiện hơn các pháp môn khác.
Thí dụ như học Thiền, học Mật sẽ chịu
ảnh hưởng rất lớn từ hoàn cảnh, đều
phải tìm một nơi thanh tịnh, [nơi ấy] gọi
là Lan Nhã, [Lan Nhã] có nghĩa là thanh tịnh, rất an
tĩnh. Tiêu chuẩn như thế nào? Vào thời cổ,
[chỗ ấy] phải là nơi không nghe tiếng trâu kêu, lấy
đó làm tiêu chuẩn. Tại nông thôn nuôi trâu, tiếng trâu
kêu lớn nhất. Chỗ quý vị [tu Thiền hay tu Mật]
phải là nơi không nghe thấy tiếng trâu kêu trong thôn
trang, nơi đó gọi là đạo tràng thanh tịnh. Niệm
Phật phải có phước báo; nhưng khi tôi thiếu phước
báo thì ở chốn náo nhiệt vẫn tu được, vẫn
có thể học thành công. Do vậy, không cần phải
lánh vào rừng núi, cũng không cần phải bế quan, yến
tọa, “yến tọa” (宴坐) là tĩnh tọa. Tiểu gia đình
trong xã hội hiện thời, công việc vô cùng bận bịu,
lấy đâu ra thời gian để tĩnh tọa? Do vậy,
pháp môn này thù thắng, pháp môn này chẳng có một tí chướng
ngại nào!
“Đản phát quảng đại giác tâm, nhất hướng chuyên
niệm danh hiệu, hạ chí thập niệm, nhất
niệm, diệc đắc vãng
sanh. Bất ngộ thế gian công tác, y cựu đốn thoát sanh tử. Ký năng tự giác, giác tha, quảng độ chúng sanh ư vị lai, diệc phục
tự tha câu lợi, tạo phước xã hội ư đương thế” (chỉ cần phát khởi giác tâm rộng
lớn, một mực chuyên niệm danh hiệu, tối thiểu
là mười niệm, hay một niệm cũng được
vãng sanh, chẳng trở ngại công việc trong thế
gian, mà vẫn nhanh chóng thoát khỏi sanh
tử y như thế. Đã có thể tự giác, giác tha, rộng
độ chúng sanh trong thời vị lai, lại còn khiến
cho mình lẫn người đều được lợi
lạc, tạo phước cho xã hội trong đời hiện
tại). Đây là sự thật, nói rõ pháp môn này thích hợp
bất luận thời đại nào; đặc biệt là
trong xã hội hiện tại, khoa học kỹ thuật
phát triển, những người công việc bận rộn,
phải tranh thủ từng phút, từng giây, khoa học kỹ
thuật thay đổi hằng ngày, hằng tháng, nếu quý
vị không nỗ lực học tập, sẽ trở thành
lạc hậu! Nhất là những người làm việc
trong lãnh vực khoa học kỹ thuật, chúng ta thấy họ
có lớp huấn luyện bổ túc, cứ mỗi nửa
năm lại phải tái giáo dục. Những thứ mới
mẻ hơn ra đời, họ phải đi học từ
một tuần cho đến hai tuần, nhằm tiếp
nhận những thứ mới mẻ. Đôi khi mỗi ba
tháng lại phải học huấn luyện bổ túc một
lần. Mỗi năm, chẳng thể thiếu hai hoặc
ba lần [huấn nghiệp như vậy]. Quả thật
cuộc sống trong xã hội này rất bận rộn, nếu
quý vị muốn thành tựu đạo nghiệp sẽ chẳng
dễ dàng. Nhưng Tịnh Độ đã tạo
phương tiện cho quý vị, hóa giải vấn đề
khó khăn này!
Tiếp
theo là: “Thị cố kinh vân,
đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận,
ngã dĩ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh chỉ
trụ bách tuế, kỳ hữu chúng sanh, trị tư kinh
giả, tùy ý sở nguyện, giai khả đắc độ”
(Vì thế, kinh dạy: “Trong đời tương lai, khi
kinh đạo diệt hết, ta do lòng từ bi, thương
xót, đặc biệt lưu lại kinh này tồn tại
một trăm năm. Có chúng sanh nào gặp được
kinh này, tùy theo sở nguyện đều có thể đắc
độ”). Đây là kinh văn ở phần sau kinh Vô
Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật sẽ giới thiệu:
“Đương lai chi thế,
kinh đạo diệt tận” (trong đời
tương lai, kinh đạo diệt hết), khẳng
định chẳng phải là hiện tại. Do trên thế
giới có nhiều nhà tiên tri nói đến ngày tận thế,
các tôn giáo ngoại quốc cũng nói tới tận thế;
có đúng là thế giới sẽ có ngày tận thế hay không?
Đều có vấn đề! Phật pháp chẳng có cách nói
như thế! Phật pháp nói “pháp
vận”. Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật là một
vạn hai ngàn năm. Thưa cùng quý vị, chư Phật
xuất thế pháp vận khác nhau; nói thật ra, Phật đâu
có pháp vận! “Vận” là do chúng
sanh [mà có]; Chánh Pháp, Tượng Pháp, Mạt Pháp đều do
chúng sanh. Chúng ta sốt sắng chịu học, đấy chính
là Chánh Pháp. Sau khi nghe xong, chẳng muốn thực hành, đó
chính là Tượng Pháp. Nghe mà cũng chẳng muốn nghe, đó
chính là Mạt Pháp. Do vậy, ba thứ pháp vận là nói theo phía
chúng sanh, chứ không nói theo Phật pháp, Phật chẳng có
vấn đề, mà Pháp cũng không có vấn đề, thật
sự là con người có vấn đề. Chúng ta có tâm
ưa thích Phật pháp mạnh mẽ như vậy, đó
là Chánh Pháp. Nay chúng ta học tập như vậy có khác gì
[thái độ] học tập của mọi người
thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế hay không? Chẳng
khác gì cả! Họ theo Thích Ca Mâu Ni Phật có thể thành tựu
trong một đời; nay chúng ta gặp pháp môn này, bảo
đảm cũng thành tựu trong một đời này, đấy
là Chánh Pháp. Nhưng đức Phật thấy căn tánh
con người, đời sau đúng là kém hơn đời
trước. Đến chín ngàn năm sau, nay chúng ta dần
dần nghĩ đến chuyện này: Nghiệp do chúng sanh
đã tạo tích lũy lại, tích lũy ác nghiệp càng
nhiều, vận may của con người chẳng còn, hoàn
cảnh cư trụ biến đổi theo, Phong Thủy
luân lưu xoay chuyển. “Phước
nhân cư phước địa” (người có phước
ở cuộc đất có phước). Chỗ Phong Thủy
chẳng tốt, nhưng người có phước báo đến
ở nơi ấy; hai ba năm sau, Phong Thủy sẽ biến
thành tốt, sẽ biến chuyển. Nơi ấy trở
thành đất báu trong Phong Thủy. Kẻ thiếu đạo
đức, tạo tác ác nghiệp, đến ở đó ba
năm, Phong Thủy đều biến thành xấu, cảnh
chuyển theo tâm mà! Địa cầu là một khối bảo
địa, người trên địa cầu đều
có thể tùy thuận Tánh Đức, tu Thập Thiện, chẳng
tạo Thập Ác, cả một khối bảo địa
sẽ chẳng có tai nạn gì, sẽ trở thành giống
như thế giới Cực Lạc.
Quý vị
thấy đức Thế Tôn giới thiệu thế giới
Cực Lạc, kinh Di Đà nói người nơi ấy đều
là bậc thượng thiện cùng ở một chỗ, chẳng
phải là thiện tầm thường, mà là thượng
thiện! Tiêu chuẩn thượng thiện cũng không cao
lắm; đức Phật bảo chúng ta tu Thượng Phẩm
Thập Thiện mà không muốn đến thế giới Cực
Lạc thì sẽ sanh vào đâu? Sẽ sanh trong thiên đạo,
từ Đao Lợi Thiên trở lên là Thượng Phẩm
Thập Thiện. Vãng sanh Phàm Thánh Đồng Cư Độ
trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là thượng
thiện, nơi ấy chẳng có tai nạn gì. Trung Phẩm
Thập Thiện là nhân đạo, Hạ Phẩm Thập
Thiện là A Tu La đạo; đó là tam thiện đạo.
Người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới không chỉ là thượng thiện, ngoài thượng
thiện ra, người ấy còn giác ngộ, chẳng mê.
Trong lục đạo, kẻ thượng thiện sanh lên
cõi trời vẫn là mê, chẳng giác, chưa ngộ. Vì sao biết
là ngộ? Trong kinh đã nói rất rõ ràng: Một người
thật sự phát Bồ Đề tâm là giác ngộ. Phát tâm
quyết định muốn cầu sanh về Tây
Phương Tịnh Độ, ý niệm ấy là giác ngộ.
Vì sao? Quý vị muốn rời khỏi lục đạo
luân hồi. Không chỉ muốn rời khỏi lục
đạo luân hồi, mà còn muốn thoát ly mười pháp
giới. Thoát ly mười pháp giới là ai vậy? Bồ
Tát! A La Hán chưa thoát được, A La Hán chỉ thoát ly
lục đạo luân hồi, chẳng thoát ly mười
pháp giới. Quý vị phát cái tâm này, muốn sanh về thế
giới Cực Lạc, dẫu là hạ hạ phẩm vãng
sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng thoát ly mười
pháp giới. Tuy chưa phải là đại triệt đại
ngộ, nhưng đã đạt được quả báo
giống như người đại triệt đại
ngộ, đây là pháp môn hy hữu. Thật sự phát tâm, chẳng
còn lưu luyến thế giới này. Không chỉ chẳng
lưu luyến thế giới này, mà thế giới Hoa Tạng
cũng chẳng lưu luyến. Quý vị hướng tới
thế giới Hoa Tạng, sẽ không sanh về đó được!
Nếu quý vị thật sự không khởi tâm, không động
niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước
thì mới có thể sanh về thế giới Hoa Tạng, quý
vị nói xem có khó khăn lắm hay không? Nhưng tới thế
giới Cực Lạc là tới thế giới Hoa Tạng,
chỗ bảo địa thù thắng nhất trong thế
giới Hoa Tạng là thế giới Cực Lạc. Trước
kia, tôi giảng kinh này tại Tân Gia Ba, đã nêu một tỷ
dụ cho các đồng học, họ nghĩ Hoa Tạng
và Cực Lạc là hai chỗ. Tôi bảo họ: Chẳng phải
là hai chỗ, mà là một chỗ. Tôi nói thế giới Hoa Tạng
giống như Tân Gia Ba, còn thế giới Cực Lạc giống
như con đường Ô Tiết (Jalan Orchard). Con
đường Ô Tiết là nơi phồn hoa nhất trong
xứ họ, [Cực Lạc] là chỗ tinh hoa nhất trong
thế giới Hoa Tạng. Sanh về thế giới Cực
Lạc là sanh vào Hoa Tạng, sanh vào Hoa Tạng vẫn
chưa đến thế giới Cực Lạc, nhưng cũng
có người có thể đến! Văn Thù, Phổ Hiền
dùng mười đại nguyện vương dẫn về
Cực Lạc, vẫn có thể đến, nhưng chẳng
trực tiếp vãng sanh thỏa đáng như vậy! Do vậy,
chúng ta phải hiểu rõ điều này thì mới thật
sự buông xuống vạn duyên, nhất tâm quy y Di Đà Tịnh
Độ.
Trong đoạn này đã dẫn một
đoạn kinh văn trong kinh Vô Lượng Thọ, Thích
Ca Mâu Ni Phật nói: “Đương
lai chi thế, kinh đạo diệt tận” (trong đời
tương lai, kinh đạo diệt hết), có cùng một
ý nghĩa như đã nói trong phần trên: “Ngã dĩ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử
kinh chỉ trụ bách tuế” (ta do lòng từ bi
thương xót, đặc biệt lưu lại kinh này tồn
tại một trăm năm). Chúng ta phải biết: Thuở
đức Thế Tôn tại thế, Ngài đã nhiều lần
tuyên giảng bộ kinh này, nhất định phải ghi
nhớ điều này. Thuở Phật tại thế, bất
luận kinh điển nào cũng chỉ giảng một lần,
chẳng nhắc lại, chỉ riêng bộ kinh này
được tuyên giảng nhiều lần, vì sao? Là do
mong mỏi kinh này có thể tồn tại đến khi pháp
diệt tận, sẽ là bộ kinh bị diệt cuối
cùng. “Kỳ hữu chúng sanh trị
tư kinh giả” (có chúng sanh nào gặp được
kinh này), “trị” (值) là gặp gỡ, cũng có nghĩa là đến
khi pháp gần như bị diệt hết, kinh đạo
đều chẳng còn, chỉ còn lại một bộ
kinh, mà nếu quý vị được gặp. “Tùy ý sở nguyện, giai khả
đắc độ” (tùy theo sở nguyện, đều
có thể đắc độ). Quý vị nghĩ đến
thế giới Cực Lạc là được rồi! Quý
vị niệm Phật bèn có thể vãng sanh. Quý vị muốn
sanh lên trời cũng được, muốn sanh trong loài người
cũng được, thuận theo lòng mong mỏi, đều
có thể mãn nguyện. “Lương
dĩ thử kinh phù hợp xã hội chi thật huống”
(ấy là vì kinh này phù hợp với tình huống thật sự
trong xã hội). Đúng như kinh Hoa Nghiêm đã nói “Lý Sự
vô ngại, Sự Sự vô ngại”, pháp môn này là pháp môn vô
chướng ngại. “Chân Tục
tịnh chiếu, Lý Sự song dung, phàm thánh tề thâu, tâm Phật
bất nhị” (Chân và Tục cùng chiếu, Lý và Sự
đều viên dung, gồm thâu phàm lẫn thánh, tâm và Phật
chẳng hai), tâm Phật bất nhị là Thật Đế.
Trong phần trước, tôi đã nói với quý vị: “Phàm thánh tề thâu” là Tục Đế,
đến phần sau sẽ nhắc lại ý nghĩa này,
trong kinh nói đến điều này rất nhiều. “Cố năng trường tồn
nhi độc lưu ư mạt thế” (Vì thế, có
thể trường tồn, một mình được
lưu lại trong đời Mạt), “mạt thế” là thời đại Mạt Pháp.
“Lương dĩ thử kinh bất
đản vi Tịnh Độ quần kinh chi cương
yếu, nhất Đại Tạng giáo chi chỉ quy, thật
diệc vi thử giới tha phương, hiện tại,
vị lai nhất thiết hữu tình ly khổ đắc lạc
cứu cánh Bồ Đề chi pháp yếu” (Ấy là vì
kinh này không chỉ là cương yếu của các kinh Tịnh
Độ, là chỗ chỉ quy của toàn bộ giáo pháp
trong Đại Tạng Kinh, mà còn là pháp trọng yếu
để hết thảy hữu tình trong cõi này,
phương khác, hiện tại, tương lai, lìa khổ
được vui, đạt đến Bồ Đề
rốt ráo), kỳ diệu như vậy ư? Thật vậy,
chẳng giả tí nào. Kinh này không chỉ là cương lãnh
và tinh yếu của Tịnh Tông, mà Tịnh Độ còn là
chỗ chỉ quy cuối cùng của hết thảy các kinh
do Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng trong bốn
mươi chín năm. Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng là
Tịnh Độ, mười đại nguyện vương
dẫn về Cực Lạc. Trong kinh Pháp Hoa, long nữ tám
tuổi thành Phật cũng là do nghe Văn Thù Bồ Tát giảng
kinh Pháp Hoa, nghe hiểu rồi bèn phát nguyện cầu sanh Tịnh
Độ, thành Phật. Trong hết thảy các kinh, đức
Phật chuyên giảng Tịnh Độ trong ba bộ kinh,
tức là kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng
Thọ Phật, kinh A Di Đà, những kinh này là chuyên giảng.
Trong ba bộ kinh ấy, kinh Vô Lượng Thọ được
tuyên giảng nhiều lần, còn hết thảy các kinh khác
giảng kèm thêm về Tịnh Độ có hơn một
trăm bộ. Do vậy, cổ đại đức bảo:
“Thiên kinh vạn luận, xứ
xứ chỉ quy” (ngàn kinh vạn luận, đâu đâu
cũng chỉ về). Đặc biệt lịch đại
tổ sư đại đức, chư đại Bồ
Tát, bất luận tuyên giảng pháp môn như thế nào,
đều khuyên thêm mọi người hãy niệm Phật
cầu sanh Tịnh Độ. Chỉ có mình pháp môn này Lý Sự
vô ngại, Sự Sự vô ngại, bất luận căn tánh
nào cũng đều có thể tu, đều có thể thành
tựu, giống như Thiện Đạo đại
sư đã nói: “Vạn tu, vạn
nhân khứ” (vạn người tu, vạn người
về). Muôn người căn tánh khác nhau, không một ai chẳng
thành tựu. Do vậy, đúng là “thử
giới, tha phương”; chữ “thử giới” chỉ thế giới Sa Bà, chữ
“tha phương” chỉ cõi
nước của hết thảy chư Phật, “hiện tại, vị lai” là
hiện tại và tương lai trong thế giới này và
các phương khác. Pháp yếu để hết thảy hữu
tình lìa khổ được vui, đạt được
Bồ Đề rốt ráo, Bồ Đề rốt ráo là thành
Phật viên mãn, “pháp” là
phương pháp, “pháp yếu”
là phương pháp quan trọng nhất, chẳng dễ gì
đạt được!
Tiếp
theo đó, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ phát nguyện,
hồi hướng: “Niệm Tổ
cảm ân đồ báo, phát vô thượng tâm, kính chú thử
kinh, tục Phật huệ mạng” (Niệm Tổ cảm
ơn, mong báo đáp, phát tâm vô thượng, kính cẩn chú
giải kinh này nhằm duy trì huệ mạng của Phật).
Báo ân, gặp được pháp môn này, tri ân, báo ân, vì sao mọi
người chẳng thể dũng mãnh phát khởi như
vậy? Do không biết ân đức. Thuở ấy, Thích Ca
Mâu Ni Phật đã nhiều lần tuyên giảng là vì ai? Khi
chúng ta gặp được, chịu tin tưởng, có thể
lý giải, phát nguyện cầu vãng sanh, đó chính là [đức
Phật đã] vì ta [mà giảng]. Nếu quý vị hiểu
rõ, có thể tiếp nhận, tức là Phật đã vì quý
vị giảng kinh này. Ngay lập tức gánh vác mới là tri
ân, [đức Phật] chẳng phải giảng cho ai khác,
mà là giảng cho tôi, Hoàng lão cư sĩ gánh vác như thế
đó! Dùng phương pháp nào để báo ân? Chú giải
kinh này. Thầy phó chúc, sau khi Hạ lão cư sĩ hội tập
thành công bộ kinh này, đã tự giảng, cư sĩ
Hoàng Niệm Tổ là học trò của cụ Hạ, đã
nghe từ đầu, chẳng sót buổi giảng nào, cụ
nghe rất nghiêm túc, thầy có thể nhìn thấy: Đứa
học trò này đối với pháp môn này mười phần
thành kính, nó sẽ được mười phần lợi
ích; vì thế, để cho trò chú giải, thầy tin tưởng
trò. Đệ tử thật sự của đức Phật
phải báo ơn Phật. Câu tiếp theo là “tục Phật huệ mạng”, niệm niệm
mong cho chánh pháp của Thích Ca Như Lai tồn tại lâu dài
trong cõi đời. [Muốn cho] chánh pháp tồn tại lâu
dài trong cõi đời phải dùng đến phương
cách nào? Chính mình phải nghiêm túc học tập, đời
đời truyền thừa. Chúng ta học từ chỗ thầy,
đạt được lợi ích thù thắng, phải truyền
cho đời tiếp theo, Phật môn gọi chuyện này
là “truyền đăng”, chớ
để ngọn đèn sáng ấy bị tiêu diệt. Chúng
ta chẳng truyền thì chẳng truyền là tiêu diệt. Hễ
bị tiêu diệt tức là có tội, tội ấy rất
nặng!
Làm
thế nào để thực hiện tốt đẹp công
tác này, làm rất đúng pháp, khiến cho chư Phật Như
Lai đều thỏa ý? Đầu tiên là đức hạnh,
đấy là điều kiện đầu tiên và trọng
yếu nhất trong “tục Phật
huệ mạng”; đây chính là ba hay bốn món căn bản
như chúng tôi đã nói trong hiện thời. Nếu quý vị
chẳng nghiêm túc và thật sự thực hiện Đệ
Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp Đạo, Sa Di Luật Nghi, quý vị sẽ chẳng
thể nối tiếp huệ mạng của Phật.
Điều kiện đầu tiên là thành tựu đức
hạnh, sau đó mới là học vấn. Học vấn là
thâm nhập một môn, trường thời huân tu. Nho và Phật
đều dạy chúng ta như vậy, chẳng dạy chúng
ta học rộng nghe nhiều. Học rộng nghe nhiều
khi nào? Sau khi khai ngộ. Khi chưa khai ngộ, mục tiêu đặt
chắc nơi khai ngộ, chẳng phải là học rộng
nghe nhiều. Học rộng nhất định chướng
ngại khai ngộ, vì sao? Tâm quý vị chẳng thanh tịnh,
quá tạp, quá nhiều thứ. Quý vị phải biết:
Thâm nhập một môn là [dốc sức nơi] một bộ
kinh. Tôi nói với mọi người: Tôi giảng ở
đây, giảng xong một bộ kinh, sẽ làm như thế
nào? Chẳng coi như đã xong, giảng lần thứ hai.
Giảng xong lần thứ hai, bèn giảng lần thứ
ba. Cổ nhân giảng kinh Di Đà, trong một đời
giảng hơn hai trăm lượt, thính chúng nghe có hứng
thú hay chăng? Họ giảng mỗi biến mỗi khác, cảnh
giới khác nhau, càng nghe càng hoan hỷ, cảnh giới của
người giảng không ngừng nâng cao, người nghe
cũng tiến lên không ngừng, giảng tràn đầy ý vị,
thật sự thực hiện, thật sự tu, được
Tam Bảo gia trì. Trong quá khứ, tôi ở Đài Trung, thầy
Lý cho tôi biết: Cụ giảng kinh Di Đà sáu lần, biểu
hiện sáu cách [khác nhau], thật đấy, chẳng giả
đâu! Tôi học kinh Lăng Nghiêm từ cụ, tôi giảng
kinh Lăng Nghiêm bảy lần, kinh ấy quá dài, phải tốn
rất nhiều thời gian. Tôi nhớ đã giảng viên
mãn từ đầu đến cuối chỉ có hai lượt,
năm lần giảng khác đều chưa viên mãn.
Tứ Hoằng
Thệ Nguyện là cương lãnh chỉ đạo tu học
tối cao của chúng ta. Quý vị thấy điều thứ
nhất là dạy chúng ta phát Bồ Đề tâm: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”, phát Bồ Đề tâm, vì chúng sanh, chứ
không phải vì chính mình. Thực hiện từ chỗ nào? “Phiền não vô tận thệ nguyện
đoạn” là đức hạnh. Trước hết,
quý vị phải đoạn hết phiền não, sau đấy
mới có thể học pháp môn. Nếu phiền não chưa
đoạn, quý vị tu học pháp môn sẽ xen tạp phiền
não, rất khó thành tựu. Do vậy, thâm nhập một môn,
trường thời huân tu là gì vậy? Là đoạn phiền
não; dùng một bộ kinh, dùng phương pháp này để
đoạn phiền não. Đối với tám vạn bốn
ngàn pháp môn, dùng kinh giáo này, quý vị đọc mỗi ngày,
giảng mỗi ngày, dùng biện pháp này, tâm quý vị sẽ
định. Một bộ, tâm sẽ định, càng giảng,
càng thuần thục, tâm càng định. Định sanh Huệ,
từ một bộ kinh mà đắc tâm thanh tịnh và tâm
bình đẳng. Chỉ cần đạt được
hai thứ ấy sẽ khai ngộ. Sau khi ngộ sẽ
như thế nào? Hết thảy các pháp môn hễ tiếp
xúc bèn thông suốt.
Vì thế,
Long Thọ Bồ Tát đã nêu gương cho chúng ta: Lão nhân
gia chứng đắc Sơ Địa Bồ Tát. Sơ
Địa trong Biệt Giáo giống Sơ Trụ trong Viên Giáo.
Tại Trung Quốc, nói tới những vị đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh thì vị
đại biểu trọn vẹn nhất của Trung Quốc
là Huệ Năng đại sư, Long Thọ Bồ Tát chứng
đắc cùng một cảnh giới như thế đó.
Thuở đức Thế Tôn tại thế, giảng kinh bốn
mươi chín năm, Long Thọ Bồ Tát dùng bao nhiêu thời
gian để học xong toàn bộ hết thảy các kinh
do đức Phật đã nói? Ba tháng! Đối với cái
gọi là Đại Tạng Kinh hiện thời, Ngài học
xong trong ba tháng. Vì sao Ngài học nhanh như vậy? Quý vị
đọc Lục Tổ Đàn Kinh sẽ hiểu rõ. Quý vị
thấy Lục Tổ Đàn Kinh có chép một câu chuyện,
trong Phật môn gọi là “công
án”, tức là thí dụ điển hình. Thiền sư Pháp
Đạt học kinh Pháp Hoa, đến gặp Lục Tổ,
khi lễ bái đầu chẳng chạm đất. Lục
Tổ thấy Sư lạy Tam Bảo mà đầu vẫn
chẳng chạm sát đất, bèn đứng dậy hỏi
Sư: “Ông có điều gì đáng để kiêu ngạo vậy?”
Nói theo cách hiện thời, ngươi có cái gì đáng để
ngông nghênh như thế? Lễ bái mà đầu chẳng chạm
sát đất. Sư thưa: “Đã niệm tới ba ngàn bộ
kinh Pháp Hoa”. Kinh Pháp Hoa rất dài, ba ngàn bộ tối thiểu
là ba ngàn ngày. Nói cách khác là mười năm, mười
năm niệm một bộ kinh, đáng nên kiêu ngạo lắm
chứ! Lục Tổ bèn khảo Sư: “Kinh Pháp Hoa giảng
những gì?” Nói không được, bèn quay sang thỉnh giáo
Lục Tổ. Lục Tổ nói: “Ta không biết chữ, nên
chưa đọc kinh ấy, mà cũng chưa nghe qua”. Ngài
bảo: “Nếu ông đã niệm thuần thục như vậy,
hãy đọc cho ta nghe”. Kinh Pháp Hoa gồm hai mươi tám
phẩm, Sư đọc đến phẩm thứ hai là
phẩm Phương Tiện. Đọc đến phẩm
thứ hai, Lục Tổ nói: “Được rồi, chẳng
cần niệm nữa, ta biết hết rồi”. Ngài giảng
cho Sư nghe, Sư bèn khai ngộ, khi lễ bái, đầu
bèn dập sát đất. Quý vị hiểu: Người
khai ngộ có cần phải đọc toàn bộ hay
chăng? Không cần! Xem một quyển, đọc một
đoạn, bèn hiểu toàn bộ giảng về pháp nào,
hoàn toàn thông suốt! Vì thế, ba tháng đọc hết một
bộ Đại Tạng Kinh là thật, chẳng giả!
Thiền
Tông nói “ngộ hậu khởi
tu” (sau khi ngộ bắt đầu tu tập). Vì sao Tông
Môn và Giáo Hạ khác nhau? Giáo Hạ vừa
bắt đầu bèn học tập kinh giáo, còn Tông Môn thì chắc
chắn là chưa khai ngộ sẽ không cho quý vị xem
kinh, cũng không cho quý vị nghe gì khác, nhằm khiến cho
quý vị buông xuống, buông phân biệt xuống, buông chấp
trước xuống, khi ngộ sẽ là thanh tịnh, bình
đẳng, giác. Giác là giác ngộ; giác ngộ ắt phải
đoạn hết vô thỉ vô minh phiền não. Vô thỉ vô
minh phiền não là khởi tâm động niệm, lục
căn tiếp xúc cảnh giới lục trần chẳng
khởi tâm, không động niệm. Khởi tâm động
niệm còn chẳng có, đương nhiên chẳng có phân
biệt, chấp trước, đạt đến cảnh
giới này. Giác tánh, tức tự tánh giác hiện tiền;
hễ hiện tiền thì lục căn tiếp xúc cảnh
giới, vừa tiếp xúc bèn thông đạt, hiểu rõ, học
nhanh lắm! Lục Tổ chẳng biết chữ, chưa
từng nghe kinh. Nếu nói Ngài nghe kinh thì chính là lúc canh ba nửa
đêm, hòa thượng Ngũ Tổ Nhẫn giảng kinh
Kim Cang cho Ngài tại phương trượng thất, đương
nhiên là giảng đại ý. Giảng đến câu “ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ
tâm” (đừng nên trụ vào đâu để sanh tâm),
Ngài bèn kiến tánh, nói ra cảnh giới gồm năm câu: “Hà kỳ tự tánh bổn tự
thanh tịnh, bổn bất sanh diệt, bổn tự cụ
túc, bổn bất dao động, năng sanh vạn pháp”
(nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, vốn chẳng
sanh diệt, vốn tự trọn đủ, vốn chẳng
dao động, có thể sanh ra vạn pháp). Hòa thượng
Ngũ Tổ Nhẫn nói: “Được rồi, những
điều sau đó không cần phải nói nữa!” Trao y
bát cho Ngài, giục Ngài hãy đi cho nhanh, vì sao phải đi?
[Sẽ bị] người khác ganh ghét, chướng ngại,
chẳng phục. Người khác hằng ngày nghe kinh tại
giảng đường, hằng ngày tọa Thiền trong Thiền
Đường, đều chẳng được truyền
y bát. Thế mà gã này đến đây, chưa từng vào Thiền
Đường một ngày nào, cũng chẳng tới giảng
đường bữa nào. Ngũ Tổ chỉ giao cho hắn
giã gạo, bửa củi trong phòng xay xát, làm suốt tám
tháng, kết quả là y bát bị hắn ôm đi. Cho nên chẳng
có ai phục. Đến hôm sau, họ truy tìm khắp
nơi, toan bắt Ngài về. Phật, Bồ Tát gia hộ, Ngài
ẩn núp trong phường thợ săn mười
lăm năm. Mười lăm năm khiến mọi
người quên dần chuyện này, lúc ấy mới xuất
hiện.
Trên
đường lánh nạn, tại thôn Tào Hầu, Sư gặp
tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng, bà này thọ trì kinh Đại
Bát Niết Bàn. Kinh Đại Bát Niết Bàn có phân lượng
lớn, có hai phiên bản, một bản là bốn
mươi quyển, bản kia gồm ba mươi sáu quyển.
Huệ Năng đại sư lúc ấy hai mươi bốn
tuổi, khi mới vừa bỏ trốn, còn chưa đến
chỗ phường thợ săn, tại thôn Tào Hầu gặp
vị tỳ-kheo-ni này, nghe bà ta niệm kinh Niết Bàn. Nghe
xong, bèn giảng giải cho bà ta nghe, vị tỳ-kheo-ni ấy
bội phục năm vóc sát đất. Giảng quá hay, giảng
đến mức bà ta khai ngộ. Bà ta cũng là “nhất
tâm thọ trì, thâm nhập một môn, trường thời
huân tu”, nên đắc tam-muội, khi Tổ vừa giảng
bèn khai ngộ. Cầm kinh điển hướng về Lục
Tổ thỉnh giáo, Lục Tổ nói: “Ta không biết chữ”.
Bà ta hỏi: “Ngài không biết chữ, sao có thể giảng
được ý nghĩa?” Tổ nói: “Chẳng dính dáng gì đến
văn tự!” Chúng ta chớ nên không hiểu, đúng là chẳng
dính dáng! Vì thế, cổ nhân thâm nhập một môn, trường
thời huân tu, ở đây có đạo lý to lớn! Tại
Trung Quốc, không chỉ học Phật là như thế, mà
học Đạo, học Nho cũng đều là như thế.
Thời cổ, trường tư thục dạy học
trò, điều quan trọng là khơi gợi, phát khởi ngộ
tánh của trò, coi đó là điều quan trọng nhất,
những điều khác đều là hạng hai, hạng
ba! Xếp ngộ tánh vào bậc nhất, chớ nên ngăn
lấp ngộ tánh của người ta. Con người hiện
thời không hiểu [chuyện này]. Hôm nay đã hết thời
gian rồi, chúng ta học tập tới đây.
Tập 10
“Thị cố, Niệm Tổ cảm ân đồ
báo, phát vô thượng tâm, kính chú thử kinh, tục Phật
huệ mạng” (Vì thế,
Niệm Tổ cảm ơn, mong báo đáp, phát tâm vô thượng,
kính cẩn chú giải kinh này nhằm duy trì huệ mạng
của Phật), lần trước, chúng ta đã học
đến chỗ này. Đoạn trước là phần
thưa bày [tâm nguyện], mấy câu cuối cùng của cụ
nhằm hồi hướng, vừa cảm ân vừa hồi
hướng. Chúng ta sau khi đọc, cũng phải biết
cảm ơn, có biết ơn mới có thể cảm
ơn. Nếu chẳng biết ân đức, tâm báo ân chẳng
thể sanh khởi. Đặc biệt là chúng ta sanh nhằm
thời đại này, gặp nhiều khổ nạn rất
ít thấy [xảy ra] trong lịch sử, cũng có thể
nói là: Không chỉ chưa thấy, mà cũng chưa từng
nghe nói đến! Nguyên nhân vô cùng phức tạp, như trong
kinh Phật đã nói là “vô
lượng nhân duyên”. Chắc chắn không thể oán trời
hờn người, nói chung là do nghiệp lực của
chính mình cảm vời. Sống trong hoàn cảnh khổ nạn,
chúng ta cũng phải cảm thấy may mắn, vì chúng ta
biết dùng thân người để nghe Phật pháp, có thể
nghe kinh Hoa Nghiêm và Tịnh Độ, đó là đã gặp
gỡ nhân duyên hy hữu khôn sánh! Được gặp gỡ,
chúng ta đều phải sanh tâm cảm ơn. Tịnh Tông chúng
ta có thể gặp được bản hội tập này
của lão cư sĩ Hạ Liên Cư, là bản tiêu chuẩn
của Tịnh Tông; chúng ta có thể tin tưởng là trong
chín ngàn năm về sau này, có nhiều người sẽ
nhờ bộ kinh này mà đắc độ. Lại gặp
lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ vâng lãnh lời phó chúc của
thầy, chú giải cặn kẽ kinh này. Chúng ta biết khi
cụ viết chú giải, thứ nhất là tuổi tác
đã già, thứ hai là thân thể lắm bệnh. Trong tình trạng
ấy, cụ chẳng nề hà nhọc nhằn, cay đắng,
hoàn thành công tác gian nan, to lớn, vô cùng khó khăn này! Tôi
không chỉ là nghe nói, mà ở Bắc Kinh, tôi đã tận mắt
thấy. Thấy sự tình ấy, đương nhiên quý vị
sẽ cảm động, cảm nhận một phen khổ
tâm của lão nhân, vì sao? Vì chín ngàn năm sau trong thời kỳ
Mạt Pháp, các đồng học có thể lý giải chính
xác bản kinh này. Sau khi hiểu rõ, mới có thể phát khởi
lòng tin. Có lòng tin thì mới có thể thật sự phát nguyện
cầu sanh Tịnh Độ, vâng theo lý luận và
phương pháp trong kinh này để tu học; ân đức
ấy to lớn lắm! Thù thắng khôn sánh, công đức
viết chú giải trọn chẳng kém công hội tập của
thầy Ngài là cụ Hạ Liên Cư, có cùng một công
đức. Do vậy, chúng ta học tập lần này, đặc
biệt chọn bản Đại Kinh Giải nhằm tri
ân, báo ân. Trước hết, chúng tôi giải thích
đơn giản đoạn văn này. “Cảm ân đồ báo” (cảm ơn, mong báo
đáp), cảm ơn như thế nào? Báo ơn như thế
nào? Đó chính là lão nhân gia phát vô thượng tâm, cung kính chú
giải kinh này, nhằm tiếp nối huệ mạng của
Phật. Nay chúng ta báo ân bằng cách nào? Nay chúng ta hãy khéo chiếu
theo kinh, nương theo chú giải, sốt sắng học
tập, y giáo phụng hành, đó là tiếp nối huệ mạng
của Phật. Chúng ta phải tham cứu thấu triệt
đạo lý trong kinh và trong bản chú giải, phải vận
dụng những đạo lý ấy vào cuộc sống hằng
ngày, thực hiện trong công việc, thực hiện trong
xử sự, đãi người, tiếp vật, mục
tiêu chung cực là quyết định vãng sanh Tịnh Độ,
nghiêm túc báo ân, thật sự tiếp nối huệ mạng
của đức Phật.
Tiếp
đó, cụ cầu gia bị, “kiền
kỳ lưỡng độ đạo sư”, nghĩa
là kiền thành khẩn cầu Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
ở phương này và Bổn Sư A Di Đà Phật trong
thế giới Cực Lạc, hai vị đạo sư
trong hai cõi. “Thập
phương Như Lai”, trong kinh, [cụ thể là] trong
kinh Di Đà, chúng ta thấy chư Phật trong sáu
phương tán thán, còn trong bản kinh này là mười
phương chư Phật tán thán. “Thượng sư bổn tôn” là thầy. Cụ
Hoàng, cụ Hạ đều từng học Thiền Tông, mà
cũng đã học Mật Tông. Tông Môn, Giáo Hạ, Hiển
Mật viên dung, thảy đều thông đạt, cuối
cùng quy hướng Tịnh Độ. Đây đều là
biểu thị pháp cho chúng ta thấy: Bất luận học
Giáo hay tham Thiền, hay tu Mật, đến cuối cùng thì
sao? Cuối cùng vẫn phải niệm A Di Đà Phật cầu
sanh Tịnh Độ. Điều này khiến cho chúng ta
nhìn vào hai vị lão nhân, họ đã làm như thế nào? Trên
thực tế, họ hoàn toàn học theo hai vị Bồ
Tát Văn Thù và Phổ Hiền trong hội Hoa Nghiêm, đến
cuối cùng đều phát nguyện cầu sanh Tịnh
Độ, thật sự sanh về Tịnh Độ. Họ
nêu gương cho chúng ta xem, khiến cho chúng ta là những kẻ
chẳng có căn khí giống như họ, họ là bậc
thượng thượng căn, chúng ta là kẻ trung hạ
căn hay hạ hạ căn, hãy nên khăng khăng một
mực nhất tâm quy mạng A Di Đà Phật, suốt
đời tuân theo một phương hướng là Tây
Phương, một mục tiêu là thế giới Cực Lạc,
thân cận A Di Đà Phật, đó là đúng, thật sự
tiếp nối huệ mạng của Phật! Chúng ta làm như
vậy cũng sẽ ảnh hưởng nhiều người,
những người ấy sẽ tiếp tục làm theo.
Nói “Kim Cang hộ pháp” là cầu
thần hộ pháp gia hộ. “Từ
ân phú hộ” (từ ân che chở, hộ trì), đó là hộ
trì. “Oai đức minh gia” là
ngấm ngầm gia hộ. “Ký
thử chú thích, thượng khế thánh tâm, quảng khải
chúng tín, phàm hữu kiến văn, đồng nhập Di
Đà Nhất Thừa nguyện hải” (mong sao bản
chú thích này trên khế hợp thánh tâm, khơi gợi rộng
rãi lòng tin của mọi người. Có ai thấy nghe đều
cùng nhập biển nguyện Nhất Thừa của Phật
Di Đà): Mong cho bản chú giải này được Thích
Ca, Di Đà gia trì, được mười phương
chư Phật hộ niệm, chẳng chú giải sai lầm,
những câu chữ đã chú giải đều hợp với
ý nghĩa giáo hóa của Như Lai. Quan trọng nhất là người
đời sau sẽ đối với kinh này và bản chú
giải này tin sâu chẳng nghi, quý vị đạt
được lợi ích. Tổ Ấn Quang nói: “Một phần thành kính được
một phần lợi ích, mười phần thành kính
được mười phần lợi ích”. “Phàm có ai thấy nghe” là nói
đến kẻ hữu duyên, Phật độ kẻ hữu
duyên, có thể thấy kinh và bản chú giải này chính là kẻ
có thể tham dự pháp hội này, sẽ cùng nhập biển
nguyện Nhất Thừa của Phật Di Đà. Niệm Phật
Đường là A Di Đà Phật Nhất Thừa nguyện
hải. Nhất Thừa là thành Phật, chẳng phải là
Bồ Tát, chẳng phải là Nhị Thừa, hay Tam Thừa.
Nhị Thừa là Đại Thừa và Tiểu Thừa. Tam
Thừa là Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát; Nhất Thừa
là thành Phật. Pháp môn này thẳng chóng, ổn thỏa, là
pháp môn thành Phật trong một đời, cho nên gọi là “Nhất Thừa nguyện hải”.
Hai chữ cuối cùng là cảm ơn, tức là cảm
ơn A Di Đà Phật đã dùng bốn mươi tám nguyện
nhiếp thọ hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới
hư không giới. Những lời mào đầu của cụ
Hoàng đến đây là hết.
Sau đó
là phần giải thích bộ kinh này; đoạn lớn thứ
hai là Khái Yếu. “Thập môn
phân liệt trung tiền cửu môn. Cẩn thích thử kinh,
y Hoa Nghiêm tông pháp cập Di Đà Sớ Sao lệ, tổng
khai thập môn” (Chín môn đầu trong cách phân chia, sắp
xếp thành mười môn, kính cẩn giải thích kinh này
tuân theo cách [chú giải kinh điển] của tông Hoa Nghiêm
và thể lệ của bộ Di Đà Sớ Sao, chia [nội
dung bản chú giải] tổng quát thành mười môn).
Trước hết, nói rõ cách thức mà cụ đã tuân
theo trong bản chú giải này: Dựa theo cách thức của
tông Hoa Nghiêm. Tông Hoa Nghiêm dùng “thập
môn khai khải” để giới thiệu đại ý
của cả bản kinh, rồi mới giải thích chi tiết
kinh văn. Trong mười môn ở trước [phần
giải thích chánh kinh], đặc biệt là chín môn đầu
nhằm làm cho người học tập kinh giáo chúng ta, trước
khi đọc đến phần chánh kinh, đã hiểu rõ
đại ý của cả bản kinh. Ở đây, có hai tầng
ý nghĩa:
1) Tầng
ý nghĩa thứ nhất là trước hết khiến cho
quý vị liễu giải đại ý của cả bản
kinh, khơi gợi hứng thú học tập pháp môn này.
Đấy là điều cần phải có.
2) Những vị lão
tham, tức là những người tu hành đã lâu, đối
với bộ kinh này, họ đã rất thuần thục,
nhưng họ đến tham dự pháp hội để làm
Ảnh Hưởng Chúng, họ nghe gì? Nghe Huyền Nghĩa!
Phần Khái Yếu chính là Huyền Nghĩa. Vì Huyền Nghĩa
là sự “thể ngộ” (thấu hiểu, lãnh ngộ) của
quý vị đối với cả bản kinh sẽ
được biểu lộ trong ấy. Cũng có
nghĩa là nói: Từ đoạn này, sẽ có thể hoàn
toàn thấu hiểu quý vị tu học đến tầng
lớp, giai đoạn nào. Nếu người tu hành đã
lâu mà nghe là nghe chỗ này; đây cũng là nói theo kiểu hiện
thời của chúng ta: [Huyền Nghĩa] là tâm đắc
tu học. [Nghe giảng Huyền Nghĩa] là nghe báo cáo tâm
đắc của quý vị, phần giải thích kinh
văn ở phía sau không cần nghe, họ đã hiểu rất
rõ.
Tuy đã hiểu rất
rõ ràng, nhưng đúng là có không ít người từ đầu
đến cuối vẫn nghe hết sức nghiêm túc, hết
sức cung kính; đó là gì? Làm Ảnh Hưởng Chúng, nhằm
dẫn dắt kẻ sơ học. Kẻ sơ học đối
với kinh này chưa có tín tâm, hoài nghi, nghe chẳng lọt
tai, thấy những vị tu hành đã lâu đều nghe
nghiêm túc như thế, lòng tin của họ được
tăng trưởng. [Các vị ấy đã] nêu
gương, làm mẫu cho họ. Người thật sự
học Phật bèn hiểu rõ: Bất luận quý vị nghe
hiểu hay không, vẫn một mực kiên trì nghe thì quý vị
mới có thể nhập môn.
Bản
chú giải kinh A Di Đà của Liên Trì đại sư có phân
lượng rất lớn; bản chú giải ấy có tên
là A Di Đà Kinh Sớ Sao. Sớ là giải thích kinh, Sao là giải
thích lời Sớ, tức là chú giải lời chú giải.
Sớ do Liên Trì đại sư viết, mà Sao cũng do
Ngài viết. Sau khi đã viết lời chú giải, văn
tự còn có chỗ rất sâu, sợ người đời
sau khó hiểu, nên Ngài lại chú giải lời Sớ, từ
bi đến mức cùng cực! Đệ tử của
Ngài là pháp sư Cổ Đức, là truyền nhân của Liên
Trì đại sư, sau khi Liên Trì đại sư vãng sanh
đã biên tập, chỉnh lý tất cả các trước
tác của lão nhân gia đem xuất bản, lưu truyền
đến hiện tại. Bản sách in hiện thời gần
như là in thành bốn cuốn [in chung thành một bộ]. Bốn
quyển sách dầy như vậy do Liên Trì đại
sư trước tác, chúng ta phải cảm kích pháp sư Cổ
Đức. Pháp sư Cổ Đức rất từ bi, sợ
Sớ Sao vẫn còn có những chỗ rất sâu, luôn mong
cho người đời sau hễ đọc sẽ hiểu
rất dễ dàng, nên lại viết một bản chú giải
sách Sớ Sao gọi là Diễn Nghĩa. Vì thế, quý vị
thấy A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa thì phần
Diễn Nghĩa là của pháp sư Cổ Đức. Sớ
Sao do Liên Trì đại sư viết, Sớ Sao do chính Ngài
viết. Lão nhân gia viết Sớ Sao, cũng dùng thập môn
khai khải của tông Hoa Nghiêm, không dễ dàng! Chúng ta có thể
hiểu nỗi khổ tâm của lão nhân gia. Trong thời
đại của Ngài, có thể nói là tại Trung Quốc, Thiền
Tông phổ cập khắp nước, phong khí nhà Thiền
hưng thịnh, sự hưng thịnh ấy chỉ ở
bề ngoài! Trên thực tế, Thiền hưng thịnh nhất
trong hai triều đại Đường và Tống, còn họ
(những người đồng thời với ngài Liên Trì)
là người đời Minh. Tổ sư thấy tham Thiền
công phu chẳng đắc lực, nếu muốn vượt
thoát lục đạo chẳng dễ dàng! Tu học Phật
pháp, vượt thoát lục đạo được coi
là tiểu thành tựu, quý vị chứng đắc tiểu
quả. Nếu chẳng thoát khỏi lục đạo luân
hồi, chẳng có thành tựu, chỉ có thể nói là tăng
trưởng thiện căn trong A Lại Da, chẳng thể
tính là thành tựu! Do vậy, Ngài đề xuất pháp môn Tịnh
Tông, chẳng ai tin tưởng. Đã thế, mọi
người coi rẻ pháp môn Tịnh Độ, thường
nghĩ pháp môn Tịnh Độ dành để dạy cho
các bà lão. Hiểu lầm là Thích Ca Mâu Ni Phật vì tiếp dẫn
những kẻ chẳng có kiến thức nên khuyên họ
niệm Phật, toàn là tâm lý và quan niệm sai lầm như
vậy. Làm thế nào để đề cao Tịnh Độ?
Đối với kinh Hoa Nghiêm, chẳng ai bàn cãi! Kẻ không
hiểu Phật pháp nghe kinh Hoa Nghiêm cũng bội phục năm
vóc sát đất. Do vậy, Ngài bèn dùng thập môn khai khải
của Hoa Nghiêm để giảng Phật Thuyết A Di
Đà Kinh, đưa kinh A Di Đà lên ngang tầm kinh Hoa
Nghiêm, đó là nỗi khổ tâm của Liên Trì đại
sư. Quý vị chẳng phải là tin tưởng Hoa Nghiêm
lắm ư? Kinh Di Đà chẳng khác gì kinh Hoa Nghiêm! Trong giáo
pháp Đại Thừa có câu ngạn ngữ: “Viên nhân thuyết pháp, vô pháp bất
viên” (người viên mãn thuyết pháp, không pháp nào chẳng
viên mãn), viên nhân là gì? Người kiến tánh. Người
minh tâm kiến tánh, tùy tiện lấy một pháp nào,
cũng đều có thể tương ứng với Hoa
Nghiêm. Nhìn từ chỗ này, Liên Trì đại sư cũng
không phải là kẻ bình phàm, kẻ bình phàm sẽ chẳng
thể làm được!
Ngẫu
Ích đại sư là tư thục đệ tử của
Liên Trì đại sư, có quan hệ giống như quan hệ
giữa Mạnh Tử và Khổng Tử. Ngài Ngẫu Ích muốn
tìm một vị thầy, nhưng tìm không ra! Quý vị đọc
sách do Ngài trước tác, sẽ thấy: Khi ấy, Ngài chẳng
vừa ý lắm với những kẻ tu hành trong Phật
môn, nên đã lấy biệt hiệu là Bát Bất Đạo
Nhân, chẳng thường qua lại với mọi người,
chẳng hợp tính với họ, [bị
những kẻ tu hành đương thời coi] là một
quái nhân trong Phật môn. Khi ấy, Liên Trì đại sư
đã vãng sanh, nhưng trước tác của Ngài còn đó.
Do vậy, Ngài làm tư thục đệ tử của tổ
Liên Trì, cũng nghĩa là nói Ngài tôn Liên Trì đại sư làm
thầy. Thầy không còn trên đời, nhưng trước
tác của thầy còn đó, bèn dựa theo trước tác của
thầy để học tập. Giống như Mạnh Tử
vào thời cổ, Mạnh Tử học Khổng Tử, Khổng
Tử cũng đã khuất, nhưng trước tác của
Khổng Tử còn đó, [Mạnh Tử bèn] đọc sách
của Khổng Tử, chỗ nào chẳng thấu hiểu,
bèn thưa hỏi học trò của Khổng Tử. Ngài học
thành tựu, học còn giỏi hơn đệ tử của
Khổng Tử. Do vậy, hễ nói tới Nho gia, toàn là nói
Khổng Mạnh, chẳng nhắc tới ai khác. Điều
này cho thấy: Tuy Ngài chẳng được chính Khổng
Tử truyền dạy, nhưng chiếu theo sách của Khổng
Tử để học, trọn chẳng thua kém học trò
do đích thân Khổng Tử đã truyền dạy, thành
tích hết sức ưu tú, đấy là người đầu
tiên lập ra thể lệ “tư thục đệ tử”
của Trung Quốc. Trong Phật môn, Ngẫu Ích đại
sư học theo tổ Liên Trì, Ngài bội phục Liên Trì
đại sư nhất, cũng học theo rất giống,
cho nên ngài Liên Trì là tổ sư Tịnh Độ Tông đời
thứ tám, Ngẫu Ích đại sư là tổ sư đời
thứ chín, chúng ta đều nên học tập những
điều này. Trong thời đại hiện tại, chúng
ta không tìm được thiện tri thức chân chánh, hãy
tìm cổ nhân! Học kinh A Di Đà có thể tìm Liên Trì đại
sư, học kinh Vô Lượng Thọ có thể tìm lão
cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Lão cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ là Kim Cang thượng sư[3]
trong Mật Tông, nên ở đây Ngài có thượng sư bổn
tôn[4].
Cụ Hoàng cũng đã vãng sanh, lão nhân gia niệm Phật
vãng sanh; khi bệnh nặng, đã báo tin cho tôi biết, mỗi
ngày cụ niệm Phật hiệu mười bốn vạn
câu, ngủ rất ít, Phật hiệu không ngừng, thật
sự vãng sanh.
“Mười môn” là báo cáo tâm đắc
của cụ được chia thành mười đoạn,
nói như vậy mọi người sẽ dễ hiểu.
Tiếp đó cụ nêu ra mười đề mục, tức
là mỗi đoạn có một tiêu đề. “Kế vi nhất, giáo khởi nhân
duyên” (mục thứ nhất là nhân duyên khiến cho giáo
pháp phát khởi), thứ hai là “bổn
kinh Thể Tánh” (Thể và Tánh của bản kinh này), thứ
ba là “nhất kinh Tông Thú”
(tông và thú của kinh), thứ tư là “phương tiện lực dụng”, thứ
năm là “sở bị căn
khí” (căn tánh được tiếp độ bởi
bản kinh này), thứ sáu là “tạng
giáo sở nhiếp” (kinh này thuộc về tạng nào và
giáo nào), thứ bảy là “bộ
loại sai biệt”, thứ tám là “dịch
hội hiệu thích”, “dịch”
(譯) là phiên dịch,
“hội” (會) là hội tập, “hiệu” (校, còn đọc là giảo) là
do Bành Tế Thanh thực hiện,
ông ta đã soạn một bản tiết hiệu (trích lục,
phân đoạn, chỉnh sửa những chữ bị chép
lầm), “thích” là giải
thích. Thứ chín là “tổng
thích danh đề”, tức là giải thích đề mục
bản kinh. Đoạn cuối cùng là “chánh thích kinh nghĩa”, bắt đầu giải
thích kinh văn; kinh văn có tất cả bốn
mươi tám phẩm.
“Tiền cửu môn tổng luận
toàn kinh cương tông bộ loại, thử dữ Thiên
Thai tông chi Ngũ Trùng Huyền Nghĩa, đại đồng
tiểu dị” (chín môn trước là luận định
chung về cương lĩnh, tông chỉ, bộ loại của
cả bản kinh, điều này giống như phần Năm
Tầng Huyền Nghĩa của tông Thiên Thai, chỉ là khác
biệt đôi chút). Tông Thiên Thai dựa trên kinh Pháp Hoa, Pháp
Hoa cũng là kinh điển Nhất Thừa. Báo cáo [tâm
đắc] của họ được chia thành năm
đoạn, còn tông Hoa Nghiêm chia thành mười đoạn.
Hoa Nghiêm dùng “thập” để
biểu pháp, “thập” tượng
trưng viên mãn. Nói chung, vì mười môn rắc rối, nên
lịch đại pháp sư giảng kinh khi báo cáo như vậy
quá nửa đều tuân theo cách thức của tông Thiên
Thai, đơn giản, rất ít dùng phương pháp của
tông Hoa Nghiêm. Cách của Hoa Nghiêm hay lắm, nhưng phải
tốn nhiều thời gian hơn. Hiện thời, Ngũ
Trùng Huyền Nghĩa dường như cũng không phổ
biến lắm! Các báo cáo hiện thời trước hết
là nói nhân duyên giảng kinh là đủ rồi, sau khi đã
trình bày xong nhân duyên giảng kinh, đại khái là nói về
đề mục của bộ kinh sẽ được
giảng, rồi bước vào kinh văn, ngày càng
đơn giản hóa. Nhưng muốn thật sự nghiên
cứu thì [phương pháp của tông] Hoa Nghiêm hay lắm. Chúng
ta tự mình tu học, chớ nên dùng phương pháp ngắn
gọn ấy, không cần thiết, nhưng nếu đi
giảng kinh bên ngoài thì có thể. Đối với người
hiện thời, nếu dùng phương pháp [thập môn
khai khải] này để giảng, giảng một thời
gian rất dài mà vẫn chưa được nghe kinh
văn, họ sẽ chẳng có hứng thú, rút lui! Vì thế,
càng nói đơn giản càng hay. Trước đây, chúng tôi
học tập kinh giáo tại Đài Trung, thầy luôn giảng
những điều này, nhưng vì khế cơ trong xã hội
hiện đại, cũng không dùng tới cách này. Chúng tôi
không dùng những đề mục này, nhưng nội dung giảng
giống hệt, nêu nhân duyên giảng kinh: Vì sao muốn chọn
giảng bộ kinh này? Tiếp đó, giảng đề mục
của kinh. Sau đấy mới giảng thẳng vào chánh
kinh, tức là tiếp theo phần giảng đề mục
bèn giảng kinh văn. Vì thế, phần Huyền Nghĩa
phía trước giảng một hai giờ là xong, ngày hôm sau
đã có thể thấy kinh văn. Đấy là nhằm
thích ứng căn cơ của đại chúng trong xã hội
hiện tại, chúng ta chớ nên không biết điều
này. Phương pháp tu học như trong bản chú giải
này, thích hợp với chỗ nào? Thích hợp với Phật
học viện hay chùa chiền; đối với các đồng
tu trong chùa chiền, hết thảy mọi người cùng
nhau tu hành thì có thể [áp dụng phương pháp thập
môn khai khải này]. Tại các cơ sở thông thường,
hoặc khi giảng tại hội trường tạm thời,
không thể dùng phương pháp này, chúng ta chẳng thể
không biết điều này!
“Tổng chi, giai tương nhất
kinh cương yếu, tổng luận ư tiền, phát
huy minh liễu, sử độc giả tiên thức tổng
thể, hậu nghiên kinh văn, cương cử mục
trương, dị ư lãnh hội” (nói chung, đem
cương yếu của toàn bộ bản kinh luận
định chung ở đầu sách, nêu bày sáng tỏ, khiến
cho độc giả trước hết nhận biết tổng
thể, sau đó nghiên cứu kinh văn, cái lưới giơ lên, các mắt lưới
căng ra, sẽ dễ lãnh hội). Chúng ta nhìn từ chỗ
này, có thể thấy được khuôn mẫu giảng
kinh giáo học trong tùng lâm vào thời cổ. Trong Phật
môn, gọi [cách thức này] là “nghi
thức”, hiện thời gọi là “phương thức”, đều có ý nghĩa giống
nhau. Trong quá khứ, chùa viện am đường đều
là trường học, quý vị phải biết điều
này. Thích Ca Mâu Ni Phật đi tham học năm mười
chín tuổi, chúng ta nhất định phải biết
điều này: Trước khi tròn mười chín tuổi,
Ngài nhất định đã có cơ sở khá vững vàng
nên mới có thể đi tham học; nếu chẳng
có, Ngài sẽ không thể đi. Tại Trung Quốc, chúng ta
thấy chính Khổng Tử đã tự thuật trong Luận
Ngữ như sau: “Thập
ngũ hữu chí ư học” (mười lăm tuổi
đã có chí dốc sức nơi việc học). Chúng ta tin
tưởng Thích Ca Mâu Ni Phật nhất định có chí học
hành sớm hơn Khổng Tử, Ngài đã có cơ sở
kha khá thì mới có thể tìm thầy, hỏi bạn. Mười
chín tuổi đi tham học, tất cả các vị đại
đức trong các tôn giáo và học phái của Ấn Độ,
Ngài đều thân cận, chẳng sót một vị nào!
Tham học mười hai năm, Ngài tròn ba mươi tuổi,
chúng tôi tin rằng trong mười hai năm ấy, thành tựu
của Ngài vô cùng ưu tú. Ngài hiếu học, lại thông
minh, mang tư cách vương tử là một thân phận
đặc thù, đến chỗ nào cũng đều
được đối xử lễ độ, ai mà chẳng
ưa thích một người như vậy?
Ở Ấn
Độ vào thời cổ, tôn giáo lẫn học thuật
đều đề xướng Thiền Định. Tứ
Thiền Bát Định được kinh Phật nói nhắc
đến, chẳng phải do Thích Ca Mâu Ni Phật sáng tạo,
các Bà La Môn của Cổ Ấn Độ đã tu [trước
đó] rồi! Bà La Môn giáo (Brahmanism) chính là Hưng Đô giáo
(Ấn Độ Giáo, Hinduism) hiện thời, tôi qua lại
với họ rất nhiều, các trưởng lão bảo
tôi: Giáo lý của họ truyền thừa từ thời cổ
đã có lịch sử tối thiểu trên một vạn
năm, chúng ta có thể tin tưởng điều này. Thời
đại thượng cổ không có văn tự ghi chép, [đến
khi] có văn tự, người Ấn Độ không coi trọng
lịch sử, chẳng giống như người Hoa! Người
Hoa hết sức coi trọng lịch sử, năm, tháng,
ngày được ghi chép rõ ràng. Người Ấn Độ
chẳng làm chuyện này, họ coi trọng khai ngộ,
không đặt nặng lịch sử; vì thế, chúng ta có
thể tin lời [các trưởng lão Bà La Môn]. Văn hóa
truyền thống Trung Quốc tuyệt đối chẳng
phải chỉ là năm ngàn năm, vì văn tự Trung Quốc
mới được phát minh bốn ngàn năm trăm năm.
Văn tự được phát minh vào thời Hoàng Đế.
Trước khi văn tự được phát minh [những
dữ kiện lịch sử được các sử gia
coi] là truyền thuyết. Trước Hoàng Đế có Thần
Nông Thị, trước đó nữa là Phục Hy Thị.
Theo truyền thuyết, từ Thần Nông đến Hoàng Đế
là năm trăm năm, từ Phục Hy đến Thần
Nông[5]
lại là năm trăm năm nữa, [tổng cộng] là
một ngàn năm. Chúng ta nói truyền thống Trung Quốc
có năm ngàn năm văn hóa là nói đến Phục Hy và Thần
Nông, trước đó vẫn còn có [lịch sử cổ
hơn].
Khổng
Tử tổng hợp những truyền thuyết từ xưa,
dùng văn tự ghi chép lại để lưu truyền cho
hậu thế. Do vậy, chúng tôi tin trong Luận Ngữ có
nhiều câu chẳng do Khổng Tử nói. Khổng Tử lão
nhân gia nói Ngài suốt đời “thuật
nhi bất tác”, “thuật”
(述) là những điều ta nói vốn do
người khác nói, do cổ thánh tiên hiền [đã nói], chứ
không phải là chính mình, chính mình chẳng sáng tạo hay phát
minh. “Tín nhi hiếu cổ”
(tin tưởng, chuộng cổ), đối với truyền
thuyết, Ngài tin tưởng, ưa thích. Do vậy, Ngũ Luân,
Ngũ Thường, Tứ Duy, Bát Đức, trọn chẳng
phải là đến thời Ngài mới có, chúng ta có lý do để
tin [những thứ ấy] phải từ một vạn năm
trở lên. Cổ nhân truyền lại những thứ tinh
giản, quý vị mới dễ nhớ, mới không bị
biến chất. Ngũ Luân là “phụ
tử hữu thân, phu phụ hữu biệt, quân thần hữu
nghĩa, trưởng ấu hữu tự, bằng hữu
hữu tín” (cha con có quan hệ thân thiết, vợ chồng
có trách nhiệm khác nhau, vua tôi có nghĩa, lớn nhỏ có
tôn ty thứ tự, bạn bè giữ chữ tín), quý vị thấy
rất dễ truyền, sẽ chẳng
bị truyền sai, ngàn vạn năm vẫn một mực
truyền xuống như thế. Ngũ Thường là
thường đạo (đạo nghĩa thường hằng),
vĩnh viễn chẳng thể thay đổi, đó là
đạo, tức năm chữ “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, đều được
đời đời truyền thừa trước khi có văn
tự. Tứ Duy là “lễ,
nghĩa, liêm sỉ”, bốn chữ ấy. Bát Đức
là tám chữ “trung, hiếu,
nhân, ái, tín, nghĩa, hòa, bình”. Đó là văn hóa truyền
thống, đặc sắc và tinh thần văn hóa Trung Quốc.
Phát triển cho đến hiện tại, Tứ Khố Toàn
Thư được biên soạn vào thời đại Càn
Long chính là sách vở các đời tích lũy lại, quý vị
hãy xem, sẽ thấy bất luận ai soạn sách,
đều chẳng tách rời những nguyên tắc này. Do
vậy, chúng ta dùng Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy,
Bát Đức để khái quát toàn bộ văn hóa truyền
thống của Trung Quốc từ xưa đến nay, chẳng
thể nào vượt ra khỏi những nguyên tắc này.
Đến
đời Hán, Phật pháp truyền vào Trung Quốc, tuy chẳng
phải là văn hóa bản thổ, nhưng người Trung
Quốc tâm lượng lớn, có thể bao dung, có thể dung
hợp Phật pháp và văn hóa bản thổ thành một thể,
như ông Thang Ân Tỷ (Arnodl J. Toynbee) đã nói: “Phật pháp phong phú văn hóa bản
thổ của Trung Quốc, nâng cảnh giới lên cao
hơn”. Phật pháp biến thành văn hóa của Trung Quốc;
nói tới văn hóa Trung Quốc, chắc chắn chẳng
thể tách rời Phật pháp, chúng ta có hiểu [điều
này] mới yêu quý. Đặt Phật pháp qua một bên khoan
nói tới, đối với những thứ của chúng
ta, tức là nói Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy,
Bát Đức của Trung Quốc, trong thời đại
hiện tại, đi khắp địa cầu, bất luận
nơi nào, những quốc gia, dân tộc khác biệt, tín
ngưỡng, văn hóa khác biệt, đều có thể dung
hội, chẳng chướng ngại. Đây là kinh nghiệm
của bản thân chúng tôi trong mấy chục năm gần
đây nhất, chúng ta nói rõ ràng, minh bạch, không ai chẳng
ưa thích, đều tiếp nhận. Vì thế, tiến
sĩ Thang Ân Tỷ nói: “Thế
kỷ hai mươi mốt là thế kỷ của người
Trung Quốc”. Có rất nhiều người hiểu lầm
[câu nói ấy], tưởng người Trung Quốc xưng
hùng xưng bá, chẳng phải vậy,
mà là văn hóa truyền thống của Trung Quốc sẽ
phổ cập toàn cầu, khiến cho thế giới này có
thể thật sự hóa giải xung đột, khôi phục
an định, hòa bình, hết thảy mọi người
đều cần [điều này], chúng ta phải có sự
nhận biết này. Phải giống như lão cư sĩ Hoàng
Niệm Tổ, phải biết báo ân, báo ân tổ tiên. Báo bằng
cách nào? Phải thực hiện văn hóa truyền thống,
tức là phải thực hiện Ngũ Luân, Ngũ Thường,
Tứ Duy, Bát Đức, phải nghiêm túc thực hiện. Có
như vậy mới là báo ân chân chánh. Quý vị thật
sự làm được, hiệu quả sẽ vô cùng rõ rệt,
thứ nhất là thân tâm khỏe mạnh. Phật pháp nói: “Tướng do tâm chuyển”. Thân
tâm khỏe mạnh, gia đình hạnh phúc, sự nghiệp
thuận lợi, xã hội an định, tiếp đó là
trị quốc, bình thiên hạ. Thiên hạ bình, “bình” là bình đẳng, là đối
đãi bình đẳng, cư xử hòa thuận. Vì vậy, xã
hội trong thế kỷ hai mươi mốt hết sức
cần đến học thuyết Khổng Mạnh và Đại
Thừa Phật Pháp, ông Thang Ân Tỷ thấy chẳng sai!
Đoạn
thứ nhất trong phần Khái Yếu là “giáo khởi nhân duyên”, nay chúng ta học tập đoạn
này. “Giáo khởi nhân duyên giả,
minh đại giáo sở dĩ hưng khởi chi nhân duyên”
(Giáo khởi nhân duyên là nói rõ nhân duyên khiến cho đại
giáo hưng khởi). “Minh” (明) là nói rõ, “đại giáo”
là Đại Thừa. Tịnh Tông thuộc Đại Thừa.
[Giáo khởi nhân duyên] là lý do vì sao Đại Thừa Phật
pháp hưng khởi. Vì sao nó hưng khởi? Chúng ta học Phật,
phải hiểu rõ điều này trước tiên. Trong phần
này, chia thành hai đoạn. Đoạn thứ nhất là “sơ minh đại giáo dữ Tịnh
Độ pháp môn chi hưng khởi” (trước hết,
nêu rõ sự hưng khởi của giáo pháp Đại Thừa
và pháp môn Tịnh Độ): Vì sao pháp Đại Thừa và
pháp môn Tịnh Độ hưng khởi? Đoạn thứ
hai là “tắc tường thuật
bổn kinh hưng khởi chi nhân duyên” (trình bày cặn kẽ
nhân duyên khiến cho kinh này xuất hiện), đây là nói về
nhân duyên hưng khởi của bộ kinh này, tức Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Kinh. Chúng ta đọc câu
văn kế tiếp: “Phù nhất
thiết pháp, bất ly nhân duyên” (hết thảy các pháp
chẳng lìa nhân duyên). “Phù” (夫) trợ từ, tuy lão cư sĩ dùng văn
tự rất minh bạch để viết [lời chú giải],
nhưng vẫn theo quy củ của Văn Ngôn. Chữ “phù” này là “ngữ trợ từ”
trong văn chương Văn Ngôn, không có ý nghĩa, là tiếng
đệm, tức là nói: Hết thảy các pháp thế gian
lẫn xuất thế gian đều chẳng tách rời nhân
duyên. Nó được hưng khởi, “đại giáo chi hưng, nhân duyên vô lượng, nhi
vô lượng nhân duyên duy vi nhất đại sự nhân
duyên cố” (Đại giáo được hưng khởi
bởi vô lượng nhân duyên, nhưng vô lượng nhân
duyên chỉ là một đại sự nhân duyên). Quả thật
nhân duyên phát khởi của vạn vật trong vũ trụ
đều là vô lượng, vô tận, vô số, chẳng
phải là ngẫu nhiên, đúng là vô lượng nhân duyên.
Đức
Phật dạy học, đặc biệt là dạy kẻ
mới học, đã quy nạp vô lượng nhân duyên thành
bốn loại lớn, nói khéo lắm. Trong bốn loại
lớn, thứ nhất là Thân Nhân Duyên, thứ hai là Sở
Duyên Duyên, thứ ba là Vô Gián Duyên, thứ tư là Tăng
Thượng Duyên. Đức Phật chia vô lượng nhân
duyên thành bốn loại lớn. Quý vị phải biết,
mỗi loại trong bốn loại lớn này đều là
vô lượng nhân duyên.Trong sự giảng học ấy có
pháp phương tiện, tức là nói đại lược.
Giống như thực vật, nó sanh trưởng như
thế nào? Nó có hạt giống, hạt giống là Thân Nhân Duyên.
Chẳng có hạt giống, làm sao nó sanh trưởng
được? Nhưng chỉ có mình hạt giống, mà chẳng
có những duyên khác; đem hạt giống ấy bỏ
trong chén trà, để cả trăm năm, nó cũng chẳng
thể mọc thành cây. Vì thế, nó phải có Sở Duyên
Duyên. Có Sở Duyên Duyên, hạt giống nhất định
có hy vọng mọc thành cây, đơm hoa, kết quả, nó
có một mục tiêu để duyên vào. Cũng giống
như động vật, chúng có Sở Duyên Duyên là nhất
định muốn được sanh tồn, còn mong mỏi
sẽ sanh sôi nẩy nở thành đời sau. Đấy
là bản năng, “bản
năng” như chúng ta đã nói chính là Sở Duyên Duyên. Sở
Duyên Duyên chẳng thể gián đoạn; hễ gián đoạn,
nó sẽ hủy diệt. Vì vậy, quý vị nhìn vào ba món
duyên đầu tiên, ba thứ hiện tượng có cùng một
Thể. Duyên sau cùng là Tăng Thượng Duyên, nó cũng chẳng
thể thiếu. Tăng Thượng Duyên: Hạt giống
muốn trưởng thành, cần phải có đất
đai, cần đến không khí, cần có nước, thậm
chí còn phải có sức người giúp nó, nó mới có thể
phát triển. Toàn bộ những thứ ấy gọi là Tăng
Thượng Duyên. Tăng Thượng Duyên là sức mạnh
bên ngoài giúp đỡ, là ngoại lực; ba thứ duyên trước
đó, chính mình vốn sẵn có. Phật pháp là nhân duyên sanh,
cho nên ý nghĩa này rất sâu. Phàm thứ gì là nhân duyên sanh (do
nhân duyên sanh ra) sẽ đều chẳng thật! Pháp
được sanh bởi duyên sẽ có sanh, có diệt; có sanh
có diệt sẽ chẳng thật. Vì thế, đức Phật
bảo chúng ta: “Pháp thượng
ưng xả, hà huống phi pháp” (pháp còn nên bỏ, huống
hồ phi pháp). Quý vị chớ nên chấp trước Phật
pháp. Hễ chấp trước thân này là Ngã, trật rồi!
Nếu quý vị chấp trước kinh điển là Phật
pháp, cũng trật luôn! Nó là pháp được sanh bởi
các duyên. Thứ nào chân thật sẽ chẳng phải là duyên
sanh, nó vốn có. Tự tánh là vốn có, Tánh Đức trong
tự tánh là vốn có. Trí huệ, đức năng, và tướng
hảo vốn sẵn có trong tự tánh. Ý nghĩa này sâu lắm,
nó biến thành cái được gọi là Triết Học
cao cấp và khoa học trong hiện thời. Nói pháp duyên
sanh với quý vị, đó là sơ cấp, Tiểu Học
và Trung Học đều có thể học.
Sở
dĩ vô lượng nhân duyên chỉ là một đại sự
nhân duyên là vì nếu chúng ta tổng quy nạp vô lượng
nhân duyên lại, chúng ta sẽ tìm ra nhân duyên quan trọng nhất
là gì? Vì sao phải xuất sanh? Đó là một đại sự
nhân duyên. Một đại sự nhân duyên là như trong kinh
Pháp Hoa đức Phật đã dạy: “Chư Phật Thế Tôn duy dĩ nhất đại
sự nhân duyên cố, xuất hiện ư thế”
(Chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự
nhân duyên mà xuất hiện trong cõi đời). “Duy dĩ Phật chi tri kiến, thị
ngộ chúng sanh” (chỉ nhằm dùng tri kiến của
Phật để chỉ bày, khiến cho chúng sanh khai ngộ).
Trong kinh Pháp Hoa có một câu nói về đại sự nhân
duyên như sau: “Khai thị ngộ
nhập Phật chi tri kiến”. Vì sao mười phương
chư Phật, Bồ Tát, đến ứng hóa trong thế
gian? Vì chuyện này! Bởi lẽ, Phật tri Phật kiến
chính là cái mà hết thảy chúng sanh vốn có; do vậy, Phật
chẳng độ chúng sanh! Phật ban cho quý vị cái gì? Cái
gì Phật cũng chẳng ban cho, bản thân quý vị
đã vốn có! Vốn có, nhưng quý vị mê rồi, chẳng
thể thụ hưởng. Đang mê hoặc, điên đảo,
đang luân hồi trong lục đạo, sống cuộc
đời thê thảm, khổ nạn như thế; Phật
đến điểm hóa quý vị. Quý vị có Phật tri
Phật kiến, vốn là Phật, nhưng bị mê, mê mất
tự tánh. Do vậy, đối với chúng sanh, đức
Phật chỉ có thể làm được hai chữ: “Khai thị”. Dùng phương
tiện nào để hoàn thành hai chữ này? Thân hành và ngôn
giáo. Thân hành là “thị” (示). “Thị”
làm mẫu cho quý vị xem; “ngôn
giáo” là [giáo hóa bằng] lời nói. Đức Phật coi
“thị” là phương pháp
trọng yếu để giáo hóa chúng sanh, “ngôn” nhằm bổ
sung những chỗ thiếu sót trong “thị”. Vì thế, trước hết nêu
gương cho quý vị xem, sau khi xem xong, quý vị sẽ cảm
động, lãnh hội. Sau khi nhìn thấy sẽ cảm
động, nhưng chưa hiểu rõ lắm, quý vị lại
hỏi, khi được hỏi sẽ giải thích cho quý
vị. Đức Phật làm trước! Vì sao đức
Phật phải thị hiện làm một vị Tăng khổ
hạnh, tam y nhất bát, đêm nghỉ dưới gốc
cây, ngày ăn một bữa Ngọ, để làm gì vậy?
Có ý nghĩa gì? Chúng tôi học nhiều năm như thế,
đã hiểu ý nghĩa, nhằm dạy người ta điều
gì? Buông xuống! Buông xuống bèn trở về tự tánh. Vì
sao quý vị mê ? Do quý vị tự tư, tự lợi, có
tham, sân, si, mạn, tham ái hưởng thụ ngũ dục,
lục trần, do làm những chuyện này cho nên mê.
Trên thực
tế, có thể hưởng thụ ngũ dục lục
trần hay chăng? Có thể! Vì sao không thể? Quý vị
hưởng thụ, nhưng trong lúc ấy chẳng khởi
phân biệt, dấy chấp trước nơi ấy,
đó là đúng. Nhưng khi quý vị hưởng thụ,
bèn khởi phân biệt, dấy chấp
trước, khởi lên thất tình, ngũ dục, hỏng
rồi! Sẽ sanh ra nhiều tác dụng phụ, đó là tạo
nghiệt[6]!
Sanh ra những thứ ấy, những thứ đó lại
chuốc lấy quả báo. Do cái nhân chẳng thiện, nên chẳng
đạt được thiện quả, [thọ sanh
trong] lục đạo tam đồ. Quý vị phải hiểu:
Lục đạo tam đồ chẳng có, trong tự tánh chẳng
có, vốn chẳng có, nhưng hiện thời là có hay không?
Hiện tại vẫn là chẳng có, nói với quý vị, quý
vị đâu có tin! Nói “hiện tại có”, quý vị sẽ tin
tưởng; nói “hiện tại chẳng có”, quý vị không
tin. Trong sự cảm nhận của Phật, Bồ Tát,
đúng là chẳng có, chẳng phải là giả! “Đương tướng tức
không, liễu bất khả đắc” (Chính tướng
ấy là không, trọn chẳng thể được), có ở
chỗ nào? Trong kinh, đức Phật thường nói “phàm những gì có tướng
đều là hư vọng”. Nói tổng kết về
kinh Đại Bát Nhã thì bộ kinh Đại Bát Nhã gồm
sáu trăm quyển đã giảng điều gì? Nhằm giảng
bốn câu: “Hết thảy các
pháp vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể
được”, bốn câu ấy! Thích Ca Mâu Ni Phật
giảng [Bát Nhã] hai mươi hai năm, nhằm dạy chúng
ta chân tướng sự thật là như vậy đó. Quý
vị chẳng liễu giải chân tướng sự thật,
chấp trước nó là có thật, trật rồi! Trong
các cảnh giới, cảnh giới hư huyễn, quý vị
dấy lên ý niệm khống chế, chiếm hữu, sai rồi!
Quý vị đã tạo tội nghiệp! Nếu quý vị
thụ dụng, nhưng chẳng có ý niệm, chẳng phân
biệt, chẳng chấp trước, chẳng khởi tâm
động niệm, sự thụ dụng của quý vị
là sự thụ dụng của chư Phật Như Lai. Thưa
quý vị, cõi Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như
Lai là sự thụ dụng ấy. Người trong cõi Thật
Báo Trang Nghiêm có thụ dụng, nhưng chẳng có phân biệt,
chấp trước, chẳng khởi tâm, chẳng động
niệm, đó gọi là hưởng thụ thật sự,
đó gọi là thế giới Cực Lạc. Chẳng khởi
tâm, không động niệm, cho nên sự hưởng thụ
của họ chẳng có một tí trở ngại nào, chẳng
khởi tâm động niệm! Nay chúng ta hưởng thụ,
bèn khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp
trước, phiền phức ở chỗ này! Do vậy, nói:
Chẳng có luân hồi mà tạo tác thành luân hồi. Luân hồi
là ác mộng. Quý vị đi ngủ vốn chẳng có mộng,
mỗi ngày gặp ác mộng thì ác mộng do chính quý vị tạo
tác, chẳng phải do người khác tặng cho quý vị.
Đại sự nhân duyên là khai thị
ngộ nhập, đức Phật có thể làm được
hai chữ “khai thị”; nhưng
chúng sanh tiếp xúc sự khai thị ấy, phải ngộ
nhập! “Ngộ” là hiểu
rõ, giống như chúng ta thường nói là “thấy thấu suốt”. “Nhập”
thế nào? Nhập là buông xuống, buông xuống là nhập.
Quý vị chẳng buông xuống được, sẽ chẳng
nhập cảnh giới; hễ buông xuống liền nhập.
Cận đại, Ấn Quang đại sư có một phương
pháp hết sức tuyệt diệu, dạy chúng ta ngộ
nhập như thế nào. Khi lão nhân gia tại thế, có một
khoảng thời gian rất lâu, Ngài bế quan tại Linh
Nham Sơn Tự ở Tô Châu, đó là đạo tràng tu học
cuối cùng của lão nhân gia. Tôi đã đến thăm quan
phòng (gian phòng dùng để bế quan) ấy. Rất nhỏ,
hết sức đơn giản, chỉ có một cái bàn
vuông, trên bàn thờ một pho tượng Phật, thứ
gì cũng đều chẳng có, rất đơn giản!
Một pho tượng Phật, một cặp chân đèn, một
lư hương, một cái dẫn khánh, một cái mõ nhỏ.
Phía sau tượng Phật viết một chữ to, do
chính lão nhân gia viết. Ngài viết một chữ Tử. Phương
pháp này khéo lắm! Khiến cho quý vị vừa trông thấy,
cái chết đã cận kề, thử hỏi quý vị còn
có điều gì chẳng buông xuống được
chăng? Vì thế, trong thời đại hiện tại,
bản thân tôi thường nghĩ: Thọ mạng của chúng
ta tới hôm nay là hết, ngày hôm nay phải chết, còn có
gì để mơ tưởng nữa? Do vậy, chúng ta sẽ
sốt sắng, nghĩ đến cái chết, đã chết
rồi, cái chết đang đón đầu, còn có thể nghĩ
tới ăn, mặc, ở, đi nữa chăng? Còn có thể
mong hưởng thụ hay chăng? Chẳng có! Hiện thời
chỉ còn sót lại một ý niệm cầu sanh Tịnh
Độ. Điều gì cũng đều buông xuống, chỉ
nghĩ đến A Di Đà Phật, “con ở đây chờ
Ngài, Ngài hãy đến tiếp dẫn con”. Trừ một niệm
này ra, ý niệm gì cũng đều chẳng có. Có thứ
gì trong thế gian này là của ta? Ngay cả cái thân cũng
chẳng phải! Chúng ta phải dùng tâm thái ấy để
niệm Phật, đúng như kinh Di Đà đã nói: “Hoặc một ngày, hoặc hai
ngày, cho đến bảy ngày” sẽ vãng sanh, thật đấy,
chẳng giả đâu! Hôm nay A Di Đà Phật chưa
đến, coi như chưa tới lúc, ngày mai vẫn
nghĩ như thế, mỗi ngày đều nghĩ như
thế, có nghĩa là gì? Nêu gương cho các đồng học
học Phật, khẳng định có một ngày nào đó,
A Di Đà Phật sẽ đến. A Di Đà Phật nói:
“Ngươi đã nêu gương, có thể đến thế
giới Cực Lạc”.
Chẳng
có gì khác, triệt để buông xuống! “Buông xuống” chẳng
phải là bỏ hết mọi việc, chẳng phải vậy!
Mọi sự vẫn phải làm, chuyện trong ngày hôm nay vẫn
phải làm như thế, nhưng trong tâm không in dấu vết.
Tâm như thế nào? Trong tâm là một câu A Di Đà Phật,
niệm A Di Đà Phật, tưởng A Di Đà Phật, thật
sự niệm Phật, chẳng giả vờ. Đấy
là gì? Vì đại sự này mà chư Phật Như Lai tới
thế gian này, để làm gì? Giúp chúng sanh nhanh chóng thành Phật.
Quý vị vốn là Phật, nay quý vị niệm Phật,
chắc chắn làm Phật, vốn là Phật mà! Chuyện
thế gian, chuyện trong mười pháp giới đừng
quan tâm tới, tùy duyên là tốt rồi, không nên phan duyên! Cổ
đại đức dạy chúng ta: “Tùy duyên tiêu cựu nghiệp, mạc tái tạo tân ương”
(tùy duyên tiêu nghiệp cũ, đừng tạo ương
họa mới). Nếu chúng ta không biết, đối với
hết thảy người và sự vật xung quanh vẫn
khởi tâm động niệm, vẫn còn phân biệt, chấp
trước, đấy là quý vị đang tạo ương
họa mới, tạo nghiệp, lầm rồi! Trên mặt
Sự bèn tùy duyên, trong lòng phải tinh sạch. Sự là gì?
Là giả, Sự Sự vô ngại! Chỉ cần chẳng
khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng
chấp trước, chướng ngại gì cũng đều
chẳng có. Chướng ngại là khởi tâm động
niệm! Khởi tâm động niệm là chướng ngại
nghiêm trọng nhất. Thứ nhất là đối lập.
Quyết định chẳng thể đối lập với
người khác. Chớ nên đối lập với Sự.
Chớ nên đối lập hết thảy vạn vật.
Trước hết phải tiêu trừ điều này, thành
tựu viên mãn đạo nghiệp của chính mình trong một
đời này. Quyết định chớ nên có ý niệm
khống chế, càng không nên có ý niệm chiếm hữu,
hãy học điều này, thực hiện từ chỗ
này. Làm thế nào để hóa giải ý niệm? Niệm A
Di Đà Phật để hóa giải. Trong tâm ta chỉ có A
Di Đà Phật, chỉ nghĩ đến A Di Đà Phật,
nhất tâm mong quay về thế giới Cực Lạc sớm
hơn một chút, đến thế giới Cực Lạc
để thành Phật.
Hoàn cảnh
tu học ở bên ấy tốt đẹp, thọ mạng
con người lâu dài, vô lượng thọ, lại thành tựu
nhanh chóng. Vì sao? Hoàn cảnh tu học tốt đẹp, quý
vị chắc chắn chẳng gặp duyên gây chướng
ngại, quý vị tìm ở nơi đâu không có chướng
ngại? [Các duyên trong thế giới Cực Lạc] đều
là duyên thành tựu. Do vì quý vị ở bên đó, những
người quý vị được tiếp xúc đều
là chư Phật Như Lai, chư đại Bồ Tát. Phải
hiểu: Đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới, quý vị có thể thời thời khắc khắc
tiếp xúc mười phương hết thảy chư Phật
Như Lai. Quý vị có năng lực phân thân, ngồi nơi
đó nghe A Di Đà Phật giảng kinh, thuyết pháp, [đồng
thời] phân vô lượng vô biên thân đến thập
phương thế giới lễ Phật, cúng dường,
nghe Phật thuyết pháp. Trong mười phương thế
giới chẳng có duyên phận này, nhưng thế giới
Cực Lạc trọn đủ. Do vậy, học rộng
nghe nhiều thì đến thế giới Cực Lạc sẽ
thật sự học rộng nghe nhiều, chư Phật đích
thân giáo huấn. Quý vị có năng lực phân thân. Quý vị
nói xem: Nhân duyên và hoàn cảnh học tập thù thắng như
vậy, có thể nào không đến đó? Cớ gì tham luyến
nơi đây? Thích Ca Mâu Ni Phật sợ chúng ta ở
nơi đây sẽ dấy động ý niệm tham luyến,
cho nên suốt đời chẳng lập đạo tràng, chẳng
tham luyến, chỉ cho phép ngủ dưới mỗi gốc
cây một đêm, vì sao? Bóng cây rất lớn, quý vị dấy
lên tâm tham, nên chỉ có thể ngủ một đêm, ngày hôm
sau sang chỗ khác, [chế định như vậy] nhằm
đoạn tâm tham của quý vị. Đúng là phương
tiện thiện xảo, giúp cho chúng ta chẳng sanh phiền
não, giúp chúng ta chẳng tạo tội nghiệp. Cũng có
người nói: Một đại sự nhân duyên này chính là
sanh tử đại sự. Nếu hiểu theo ý nghĩa ấy
thì chưa đủ thấu triệt! Thấu triệt vẫn
phải là tuân theo kinh điển để nói. Trong kinh
điển đã nói “khai thị
ngộ nhập Phật chi tri kiến”, [đại sự
nhân duyên] là chuyện ấy.
Trong toàn bộ sự giáo học của
Phật pháp, chuyện này gồm ba giai đoạn phải hoàn
thành. Học Phật là học gì? Trong kinh điển, chúng
ta thường đọc thấy câu “A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”;
câu này cũng là tiếng Phạn dịch âm, có thể phiên dịch,
nhưng vì sao chẳng dịch? Do tôn trọng nên chẳng dịch,
do nó là mục tiêu tu học chung cực của quý vị; vì
thế, giữ nguyên âm tiếng Phạn, [nhằm tỏ ý] tôn
trọng. Dịch sang tiếng Hán là Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, đó là tri kiến Phật mà chúng ta phải
viên mãn. Trong ba giai đoạn này, trước hết là cầu
Chánh Giác, giác ngộ, giác ngộ chính xác, chẳng lệch lạc,
chẳng tà, đều là sẵn có trong tự tánh. Làm thế
nào để có thể thành Chánh Giác? Chỉ cần chẳng
chấp trước hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, buông chấp trước xuống sẽ thành Chánh
Giác. Thành Chánh Giác có một danh xưng học vị là A La
Hán, quý vị chứng đắc A La Hán. Vì thế, quý vị
phải hiểu: Chứng đắc A La Hán là thành Chánh Giác;
trong khai thị ngộ nhập tri kiến Phật, quý vị
đạt tới giai đoạn thứ nhất. Giai
đoạn thứ hai là phải tiếp tục buông xuống,
buông phân biệt xuống, phân biệt nhẹ hơn chấp
trước, chấp trước rất nghiêm trọng. Do
chấp trước mới có lục đạo luân hồi;
buông chấp trước xuống, lục đạo chẳng
còn nữa, đó gọi là vượt thoát lục đạo
luân hồi, chẳng còn nữa, lục đạo chẳng
có, là giả, giống như nằm mộng, tỉnh giấc
thì mộng cảnh chẳng tồn tại nữa! Nếu
quý vị buông phân biệt xuống, đối với hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng
phân biệt, cảnh giới của quý vị sẽ được
nâng cao, chứng đắc Chánh Đẳng Chánh Giác. Chánh
Đẳng Chánh Giác được gọi là Bồ Tát, là danh
xưng của học vị thứ hai trong Phật pháp, quý
vị thành Bồ Tát. Ai chẳng phải là Bồ Tát? Hễ
buông xuống sẽ là Bồ Tát! Học vị tối cao sẽ
thêm chữ Vô Thượng vào đằng trước, tức
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, danh xưng của
học vị này là Phật Đà. Do vậy, trong kinh giáo Đại
Thừa, đức Phật thường nói: “Hết thảy chúng sanh vốn là
Phật”, quý vị nói có đúng hay không? Đúng! Chỉ
cần quý vị buông vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước xuống, quý vị sẽ là Phật. Chẳng
buông xuống thì vẫn là Phật! Chẳng thể nói quý vị
không phải là Phật, nhưng là một vị Phật có
đèo thêm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
Thật đấy, chẳng giả! Do vậy, đức Phật
chẳng dám khinh mạn ai! Vì sao? Ngài biết hết thảy
đều là Phật. Phật Phật bình đẳng, Phật
Phật Tánh Đức giao lưu. Phật thấy hết
thảy chúng sanh là Phật, nhưng chúng sanh thấy Phật
cũng là chúng sanh, vì sao? Họ có phân biệt; dùng cái tâm phân
biệt để nhìn Phật, dùng cái tâm chấp trước
để nhìn Phật, cho nên khác nhau, thấy lầm rồi!
Do vậy, nếu quý vị hỏi: “Ngày nào tôi sẽ thành Phật?”
Rất đơn giản! Ngày nào quý vị thấy tất
cả hết thảy chúng sanh đều là Phật, chúc mừng
quý vị, quý vị đã thành Phật rồi! Không chỉ hữu
tình chúng sanh đều là Phật, mà cây cối, hoa, cỏ,
núi sông, đại địa thảy đều là như vậy,
chẳng có một pháp nào không phải, quý vị thành Phật
rồi! Quý vị vẫn thấy ưa thích cái này, thấy chán
ghét cái kia, quý vị là lục đạo phàm phu. Vì chuyện
này mà đức Phật xuất hiện trong cõi đời,
giúp chúng ta là những vị Phật bị mê hoặc,
điên đảo khôi phục bình thường. Đấy
là nhân duyên hưng khởi của chư Phật, Bồ Tát.
Phẩm [Như
Lai] Tánh Khởi của kinh Hoa Nghiêm có một câu như sau: “Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng
Chánh Giác”, đấy là mười hiệu của đức
Phật. Mười thứ danh hiệu, tất cả
chư Phật bình đẳng, mười loại đức
hiệu ấy là Tánh Đức, cho nên trong tự tánh của
quý vị thảy đều có. “Tánh
khởi chánh pháp, bất khả tư nghị” (tánh khởi
chánh pháp chẳng thể nghĩ bàn), “chánh pháp” là Đại Thừa, Đại Thừa
do đâu mà có? Trong tự tánh vốn trọn đủ, là
thật, chẳng giả. Vì là tánh khởi, nó chẳng phải
là duyên khởi, duyên khởi chẳng thật, tánh khởi
là thật. Phải biết: Luân lý đạo đức
như tổ tiên đã dạy là tánh khởi, chẳng phải
là duyên khởi. Văn hóa truyền thống của Trung Quốc
dùng một chữ làm đại biểu, tức là Hiếu
đạo. “Hiếu văn hóa” (văn hóa đặt nền
tảng trên chữ Hiếu). Từ “hiếu” mở rộng
thành bốn khoa là Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ Duy,
và Bát Đức. Chúng là tánh khởi, chẳng do một ai
sáng chế, chẳng do ai định đặt, chẳng
phải vậy! Giống như trong thiên nhiên, bốn mùa Xuân,
Hạ, Thu, Đông phân minh, chẳng do con người định
đoạt, tự nhiên mà! Danh từ trong Phật pháp [nhằm
diễn tả điều này] là “pháp
nhĩ như thị” (pháp vốn là như thế), vốn
là như vậy, cho nên là Tánh Đức. Tổ tiên Trung Quốc
cũng rất phi phàm, nói ra chân tướng sự thật:
Tánh con người vốn lành. Tam Tự Kinh có câu: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”
(con người thuở đầu, tánh vốn lành), “thiện” ấy chẳng phải
là thiện trong thiện - ác. Thiện trong thiện - ác là
tương đối, là duyên khởi, thiện [trong câu “tánh bổn thiện”] là tánh khởi.
Tánh khởi chẳng có tương đối. Nói cách khác, hai
bên thiện và ác đều chẳng vướng mắc,
đó là chân thiện. Có thiện, có ác, đó là bất thiện.
Cảnh giới này cao lắm, tánh con người vốn
thiện. Nếu dùng Phật pháp để nói sẽ dễ
hiểu hơn. Huệ Năng đại sư kiến tánh,
[đã diễn giải] tánh như thế nào? Quý vị hãy xem
Ngài miêu tả: “Nào ngờ tự
tánh vốn tự thanh tịnh”, thanh tịnh là Tánh Đức,
thanh tịnh là tánh khởi, tánh vốn là như vậy,
chưa từng bị nhiễm. Nay bổn tánh thanh tịnh của
chúng ta có bị nhiễm hay không? Chẳng có! Tại thánh hay
tại Phật, chẳng thêm tí nào, nơi phàm chẳng giảm,
nó cũng chẳng giảm tí nào, đúng là bất tăng, bất
giảm, bất cấu, bất tịnh. Nó chẳng phải
là nhị biên, mà cũng chẳng phải là Trung Đạo.
Trung Đạo và nhị biên đối lập, cho nên: “Nhị biên bất lập, Trung
Đạo bất tồn” (Hai bên chẳng lập, Trung
Đạo chẳng còn), chẳng thể nghĩ bàn! Quý vị
chẳng thể nghĩ, hễ nghĩ bèn trật! Quý vị
chẳng thể nói, hễ nói cũng sai, không thể nói
được! Vì thế, các vị đại đức
trong Tông Môn có tỷ dụ: “Như
nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri” (như người
uống nước, ấm lạnh tự biết), chính quý
vị biết rõ ràng, rành rẽ, nhưng chẳng thể
nói được! Chỉ có người đạt đến
cảnh giới ấy, đôi bên hiểu ý nhau bèn cười,
đều hiểu rõ. Kẻ chưa đạt đến
cảnh giới ấy thì không được. Do vậy, tánh
khởi và duyên khởi khác nhau, tánh khởi chánh pháp, Đại
Thừa là tánh khởi, Tiểu Thừa là duyên khởi. Trong
Đại Thừa có duyên khởi hay chăng? Có! Nếu
phân chia Đại Thừa theo đẳng cấp, Thượng
Thượng Thừa là tánh khởi, còn Đại Thừa,
Trung Thừa, Tiểu Thừa như thường nói đều
là duyên khởi. Thiền Tông rất rõ rệt, Huệ
Năng đại sư tiếp dẫn bậc thượng
thượng căn, đó là tánh khởi; Thần Tú đại
sư tiếp dẫn Đại Thừa, đó là duyên khởi,
vì Ngài còn có thấy: “Thân thị
Bồ Đề thụ, tâm như minh kính đài” (thân là
cội Bồ Đề, tâm như đài gương sáng), đấy
là duyên khởi. Chúng ta phải lắng lòng thấu hiểu!
“Sở dĩ giả hà? Phi thiểu
nhân duyên, thành Đẳng Chánh Giác, xuất hưng ư thế”
(Vì sao vậy? Chẳng phải do đôi chút nhân duyên mà [Phật]
thành Đẳng Chánh Giác, xuất hiện trong cõi đời),
đó là gì? Đó là duyên khởi. Chư Phật Như Lai ứng
hóa trong thế gian là duyên khởi, chẳng phải là tánh khởi.
Duyên khởi là gì? Cảm ứng. Do nhân gì? Chúng sanh có cảm,
Phật bèn có ứng. Chúng tôi dùng thí nghiệm với nước
của tiến sĩ Giang Bổn Thắng [để trình
bày], quý vị sẽ hiểu rõ. Ông ta làm thí nghiệm với
nước, có rất nhiều ảnh chụp, chúng tôi có
treo [những bức ảnh ấy] trên hành lang ở nơi
đây, quý vị có thể đến xem. Chúng ta khởi tâm
động niệm là cảm, là duyên. Nước là khoáng vật,
tức vật chất, vật chất thì sao? Nó thấy
nghe hay biết, thấy nghe hay biết vĩnh viễn chẳng
diệt. Câu nói kiến tánh thứ hai của Huệ Năng
đại sư là: “Nào ngờ
tự tánh vốn chẳng sanh diệt”. Cái vốn chẳng
sanh diệt chính là thấy nghe hay biết, cho nên thấy
nghe hay biết là tự tánh; nhưng sau khi mê thì sao? Sau khi mê
sẽ không gọi là thấy nghe hay biết, mà gọi là gì?
Gọi là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, biến thành A
Lại Da Thức. A Lại Da Thức là Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Quý vị thấy năm thức đầu là
Thọ; thức thứ sáu là Tưởng; thức thứ bảy
là Hành, Hành là niệm niệm chẳng trụ, thức thứ
tám là Thức, [thấy nghe hay biết] biến thành Thọ,
Tưởng, Hành, Thức. Chúng ta gọi [Thọ, Tưởng,
Hành, Thức] là tinh thần, hay tâm lý, hoặc tâm pháp. Do vậy,
tâm pháp và vật chất vĩnh viễn chẳng tách rời.
Chỉ cần là vật chất, trong ấy nhất định
có thấy nghe hay biết. Trong lục đạo, chắc
chắn có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Do vậy, chúng
ta khởi lên ý niệm: “Ta ưa thích ngươi”, quý vị
thấy nước bèn tiếp nhận, nó cũng ưa
thích chúng ta, hiện ra cấu trúc kết tinh hết sức
đẹp đẽ. Chúng ta ưa thích nó, nó ưa thích chúng
ta. Ta chán ghét nó, nó hiện tướng rất xấu xí, thô
kệch, có nghĩa là “tôi cũng chán ghét quý vị”. Khoáng vật
thông hiểu tình cảm của con người! Tôi bảo
tiến sĩ Giang Bổn: Nước có Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Tất cả vật chất đều có Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, ông hãy gắng thí nghiệm. Nó
không chỉ hiện tướng Sắc. Đức Phật
dạy nó có bốn loại: Sắc, Thanh, Hương, Vị,
nó có bốn loại [tướng ấy]. Nay ông làm thí nghiệm,
mới nhìn thấy một trong bốn loại, mới thấy
Sắc. Quý vị còn chưa nghe âm thanh, chưa ngửi hương,
chưa nếm vị; nó có Sắc, Thanh, Hương, Vị.
Vì thế, khoa học vẫn còn kém Phật pháp một khoảng
cách! Khi nào phương pháp khoa học có thể trắc nghiệm Sắc, Thanh, Hương,
Vị thì mới là viên mãn. Đức Phật nói tới Thật
Tướng của các pháp, chẳng phải là giả, mà là
chân tướng. Thật Tướng là chân tướng của
hết thảy các pháp. Nay chúng ta nói hiện tượng vật
chất nhỏ nhất là hạt cơ bản, tức khoa-khắc
(quark, hạt vi lượng), chẳng thể thấy bằng
mắt thường. Quý vị chớ nên coi thường vật
chất bé bỏng như vậy, tất cả hết thảy
hiện tượng vật chất đều do vật
chất nhỏ nhoi này hợp thành. Mỗi vật chất
nhỏ nhất, vật chất cơ bản, thảy đều
có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Hễ giác ngộ, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức biến thành thấy, nghe, hay, biết.
Khi mê, thấy nghe hay biết biến thành Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Nó bất sanh, bất diệt, đó là chân
tướng sự thật.
Vì thế,
đức Phật xuất hiện trên thế gian là cảm
ứng. Chúng sanh chẳng có cảm, Phật sẽ không thể
xuất hiện; chúng sanh có cảm, Phật bèn xuất hiện.
Chúng ta muốn thấy A Di Đà Phật, A Di Đà Phật
thật sự bị quý vị trông thấy. Quý vị có cảm,
tôi chẳng có cảm, vì sao cũng thấy A Di Đà Phật?
Thật ra là có cảm, nhưng chính quý vị không biết.
Cảm có hiển cảm (cảm rõ rệt) và minh cảm (cảm
ngấm ngầm). “Hiển”
(顯) là khởi tâm động niệm rất
rõ rệt, tôi muốn cầu Phật; “minh” (冥) là gì? Tôi khởi
tâm động niệm, nhưng chính mình cũng không biết,
hoặc là duyên quá khứ bất tri bất giác chín muồi,
nên cảm Phật hiện tiền, Bồ Tát hiện tiền. Ứng cũng có hai thứ
là hiển ứng và minh ứng. Chúng ta cầu Phật thì Phật,
Bồ Tát có đến hay không? Đến! Chúng ta mắt thịt
nhìn không thấy, đó là “minh ứng”
(ứng ngấm ngầm). Chẳng phải là các Ngài không
đến, thật sự các Ngài ở bên cạnh quý
vị, nhưng quý vị không thấy các Ngài, các Ngài thấy
quý vị. Quý vị chẳng thấy các Ngài. “Minh ứng” là âm thầm chiếu
cố, giúp đỡ quý vị, có thật, chẳng phải
là không có! Có “hiển cảm, hiển
ứng, minh cảm, minh ứng”, cho nên có bốn câu cảm
ứng. Đây là nói rõ chuyện gì? Phật pháp là duyên sanh
pháp. Chớ nên chấp trước duyên sanh pháp! Phật
pháp có cần thiết hay không? Nay tôi đang mê, vẫn
chưa khai ngộ, chưa kiến tánh, tôi cần nó, nó giúp
đỡ tôi. Sau khi kiến tánh, chẳng cần nữa, buông
toàn bộ xuống. Sau khi kiến tánh, nếu quý vị vẫn
chấp trước Phật pháp thì lại mê rồi, trật
lất rồi! Chúng ta chẳng thấy người kiến
tánh mà vẫn còn kè kè cả đống kinh sách, chẳng có!
Kẻ chưa kiến tánh đi tới đâu đều
vác theo kinh sách, người kiến tánh chẳng có. Vì sao? Tất
cả hết thảy kinh luận thảy đều từ
tự tánh lưu lộ, người ấy cần phải
vác theo làm chi? Huệ Năng đại sư không biết
chữ, suốt đời chẳng mang theo quyển sách nào.
Ngài mang theo đến bất cứ nơi đâu là y bát, chớ
hề có một quyển kinh sách nào! Quý vị đem kinh
sách hỏi Ngài, Ngài đối đáp như nước chảy,
chẳng có gì bắt bí Ngài được! Đó là gì? Xứng
tánh. Chúng ta học Phật có mục tiêu chung cực là muốn
kiến tánh, muốn kiến tánh phải buông xuống. Buông
Phiền Não Chướng xuống, buông Sở Tri Chướng
xuống, sẽ chẳng có chướng ngại nào!
Câu tiếp
theo là “dĩ thập chủng”.
“Thập” chẳng phải
là con số mà là tỷ dụ, tỷ dụ điều gì?
Vô lượng, viên mãn. Hoa Nghiêm dùng “thập” để biểu thị pháp, kinh Di
Đà dùng “thất” để
biểu thị pháp, đều chẳng phải là con số,
mà nhằm tượng trưng cho sự viên mãn. “Thất” tượng trưng
cho viên mãn: Bốn phương, trên và dưới là “lục”, lại còn có chính giữa,
thành “thất”. “Thất” biểu thị pháp, viên
mãn. “Thập” là con số
tượng trưng, từ một đến mười
là con số viên mãn, nó [được sử dụng] nhằm
biểu thị pháp, cho nên “thập”
tượng trưng sự viên mãn. Cũng giống như vậy,
câu kế tiếp là: “Vô lượng
vô số”, vô biên, vô tận, dùng theo ý nghĩa này. “Bách thiên A-tăng-kỳ”
(trăm ngàn A-tăng-kỳ), A-tăng-kỳ (Asamkhya) là một
đơn vị số lượng lớn của Cổ Ấn
Độ, nó là một trong mười con số lớn. “Nhân duyên, thành Đẳng Chánh
Giác xuất hưng ư thế”, chúng ta có thể tin
tưởng lời này hay chăng? Có thể tin tưởng!
Chắc chắn chẳng phải là một mình chúng ta, chúng
ta ở nơi đây tưởng Phật, Phật bèn xuất
hiện trong cõi đời, chẳng phải là như vậy!
Bao nhiêu chúng sanh có duyên với Phật, do cộng nghiệp
sở cảm, Phật bèn xuất hiện trong thế gian,
chẳng đơn giản! Nếu chúng ta suy nghĩ lại,
nay chúng ta là cái thân nghiệp báo, mang theo nghiệp đến
thế gian này, tìm được cha mẹ, chúng ta sanh trong
nhân gian, có bao nhiêu nhân duyên? Thưa quý vị, cũng giống
như vậy, cũng là do “mười
thứ vô lượng, vô số, trăm ngàn A-tăng-kỳ
nhân duyên” mà chúng ta đến thế gian này. Trong các duyên ấy
có nhiễm, có tịnh, có thiện, có ác. Phật, Bồ Tát
xuất hiện, duyên ấy là thanh tịnh, là thiện. Chúng
ta đến thế gian này, xả thân, nhận thân, luân hồi
trong lục đạo, duyên ấy là nhiễm duyên, bất
thiện duyên. Vì thế, bất luận một pháp nào
cũng đều do vô lượng nhân duyên thành tựu. Phàm
là nhân duyên thành tựu, phải biết nó chẳng có tự
tánh, chẳng có tự thể. Trung Quán Luận nói: “Nhân duyên sở sanh pháp, ngã thuyết
tức thị không” (pháp sanh bởi nhân duyên, ta nói nó là
không), đức Phật nói như vậy. Vì thế, “đương thể tức thị
không, liễu bất khả đắc” (bản thể
của nó chính là không, trọn chẳng thể được),
quý vị có thể thưởng thức nó, chứ chẳng
thể khống chế, chẳng thể chiếm hữu.
Đấy là đúng! Quý vị hoàn toàn làm đúng. Nếu quý
vị muốn khống chế, toan chiếm hữu, sai rồi!
Quý vị tạo nghiệp! Bất luận quý vị tạo
tác ra sao, đều chẳng thể khống chế
được, mà cũng chẳng chiếm hữu
được! Đấy là nói thật với quý vị.
Khi quý vị có ý niệm ấy, trong tâm bị ô nhiễm, chẳng
thanh tịnh, tâm thanh tịnh mất đi, tâm bình đẳng
bị mất, đấy là [những tâm được nhắc
đến trong] đề mục kinh Vô Lượng Thọ,
tâm giác ngộ bị mất đi. “Thanh tịnh, bình đẳng, giác” là Tánh Đức
mà quý vị sẵn có, quý vị vốn là như vậy. Một
niệm sai lầm, cả ba thứ ấy
đều bị mất, chẳng còn thanh tịnh, biến
thành nhiễm ô; chẳng còn bình đẳng, biến thành
kiêu căng, ngạo mạn; chẳng còn giác, biến thành
ngu si, hồ đồ, biến chất rồi! Do vậy,
người thật sự tu hành phải biết: Trong hết
thảy thời, hết thảy chỗ, gìn giữ “thanh tịnh,
bình đẳng, giác” của chính mình, thật sự tu hành. Thật
sự tu hành thì quý vị phải nghĩ Thích Ca Mâu Ni Phật
đã nêu gương cho chúng ta, thật sự buông xuống.
Trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, tâm
địa Phật thanh tịnh, cái gì cũng đều chẳng
có, nhưng điều gì Ngài cũng đều biết,
đều trọn đủ, chẳng có mảy may khiếm
khuyết nào, vì sao? Tánh Đức là viên mãn, chẳng thể
nghĩ bàn, thật đấy, chẳng giả đâu!
Tiếp
đó là nói: “Nãi chí quảng thuyết
như thị đẳng vô lượng nhân duyên. Duy vi nhất
đại sự nhân duyên, đại sự nhân duyên giả
hà? Duy dục chúng sanh khai thị Phật tri kiến cố”
(Cho đến rộng nói vô lượng nhân duyên như thế,
chỉ là một đại sự nhân duyên. Đại sự
nhân duyên gì vậy? Chỉ vì muốn khai thị tri kiến
của Phật cho chúng sanh). “Duy”
là “duy độc” (唯獨: chỉ có một), hy vọng khai thị
tri kiến của Phật cho chúng sanh. Phật tri Phật
kiến là trí huệ Bát Nhã vốn sẵn có trong tự tánh.
Tiếp theo là nói: “Phù Hoa Nghiêm
Kinh nãi Thế Tôn tối sơ sở sáng ngôn” (kinh Hoa
Nghiêm là do đức Thế Tôn đã nói ra đầu tiên), Thích
Ca Mâu Ni Phật thị hiện trên thế gian này, khi thành Phật,
bộ kinh đầu tiên được Ngài giảng là kinh
Hoa Nghiêm, đó là kinh được giảng trước hết,
Tiểu Thừa chẳng thừa nhận, vì sao? Đức
Phật giảng trong Định, chúng ta là những kẻ
bình phàm, thấy Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi yên dưới
cội Bồ Đề trong mười bốn ngày. Ngài tịnh
tọa dưới cội Bồ Đề hai tuần mới
xuất Định, làm sao chúng ta biết được? Ở
trong Định, Ngài vì hàng Pháp Thân Bồ Tát giảng kinh Hoa
Nghiêm, đó chính là gì? Ngài đã khai ngộ, minh tâm kiến tánh,
tánh là như thế nào? Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm Kinh chính là báo cáo chi tiết tường tận với
mọi người. Huệ Năng
đại sư khai ngộ đã trình lên Ngũ Tổ Nhẫn
hòa thượng hai mươi chữ. Huệ Năng đại
sư khai ngộ chẳng khác gì Thích Ca Mâu Ni Phật khai ngộ,
hoàn toàn bình đẳng. Sau đấy, chúng ta mới biết,
hai mươi chữ của Huệ Năng triển khai thành
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh cô đọng
thành hai mươi chữ ấy, tuyệt diệu! Một
đằng là nói chi tiết, một đằng là chỉ nêu
cương lãnh. Do vậy, Huệ Năng đại sư
có thể giảng kinh Hoa Nghiêm hay không? Không ai khải thỉnh,
không ai tìm Ngài. Nếu thật sự muốn khải thỉnh,
xin Ngài giảng kinh Hoa Nghiêm, Ngài sẽ giảng giống hệt
Thích Ca Mâu Ni Phật, thật đấy, chẳng giả! Đây
cũng là chỉ dạy cho chúng ta biết phải học Phật
như thế nào, chẳng cần dùi mài nơi kinh giáo. Dùi
mài kinh giáo khổ chẳng thể nói nổi. Vì sao? Trí huệ
chẳng khai. Học được gì? Học bề ngoài,
học văn tự bề ngoài, nói theo danh từ hiện
thời là “Phật học”,
chẳng phải là “học Phật”.
Học Phật thì phải khai ngộ giống như Phật,
trọn chẳng phải là trong lòng ghi nhớ những thứ
của Phật, trong tâm ghi nhớ những thứ của Phật
sẽ biến thành gì? Biến thành Sở Tri Chướng,
vẫn là chướng ngại quý vị minh tâm kiến tánh;
nhưng như thế nào? Nói chung, chẳng hề chướng
ngại quý vị vãng sanh, chỉ chướng ngại quý vị
kiến tánh. Quý vị chẳng thấy được tánh,
sẽ chướng ngại quý vị chứng quả. Chắc
chắn tạo thành chướng ngại! Nhưng nếu quý
vị sốt sắng niệm Phật cầu vãng sanh, vẫn
phải vứt bỏ những thứ ấy, quý vị dùng
cái tâm thanh tịnh sanh vô lượng thọ, sanh vào cõi Cực
Lạc. Tâm không thanh tịnh sẽ chẳng đến
được thế giới Cực Lạc, phải hiểu
điều này. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm được nói đầu
tiên.
“Pháp Hoa kinh nãi mạt hậu chi
thùy giáo” (kinh Pháp Hoa là lời dạy lúc sau cùng), nói một
kinh lúc ban đầu, nói một kinh cuối cùng. “Tự thỉ chí chung, duy vị
thử đại sự nhân duyên, dục linh chúng sanh khai thị
ngộ nhập Phật chi tri kiến” (từ đầu
đến cuối, chỉ vì một đại sự nhân
duyên này: Muốn làm cho chúng sanh khai thị ngộ nhập
tri kiến của Phật). Có nghĩa là gì? Tiếp đó,
cụ viết: “Diệc tức
dục nhất thiết chúng sanh khai minh bổn tâm, đồng
Phật tri kiến, đẳng thành Chánh Giác dã” (cũng
là muốn cho hết thảy chúng sanh khai minh bổn tâm, có
cùng tri kiến như Phật, cùng thành Chánh Giác), đây là lời
giải thích. Tri kiến của Phật là gì? Tri kiến của
Phật là bổn tâm của quý vị. Bổn tâm của quý
vị giống như Huệ Năng đại sư đã
nói: “Nào ngờ tự tánh”,
đó chính là bổn tâm. “Vốn
tự thanh tịnh, vốn tự trọn đủ”, trọn
đủ gì? Chẳng thiếu thứ gì, viên mãn! Trong kinh Hoa
Nghiêm, đức Phật đã nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và
đức tướng của Như Lai”, dùng câu này có thể
giải thích câu “nào ngờ tự
tánh, vốn tự trọn đủ” của Huệ
Năng đại sư, trọn đủ gì? Trọn
đủ trí huệ và đức tướng của Như
Lai. Trí huệ và đức tướng là gì? Dùng ngay bản
kinh này để nói sẽ là “Đại
Thừa vô lượng thọ trang nghiêm”, Đại Thừa
là trí huệ, vô lượng thọ là đức, trang nghiêm
là tướng. Quý vị thấy hết thảy đều
trọn đủ, vốn tự trọn đủ, chẳng
khiếm khuyết. Vì thế, Phật pháp chẳng có gì khác,
buông xuống là được!
Thuở ấy
tôi học Phật, người xuất gia tôi được
gặp đầu tiên là Chương Gia đại sư do
một người bạn giới thiệu. Thời Mãn
Thanh, người bạn ấy là một vị thân
vương[7],
tức Mẫn thân vương. Thanh triều sụp đổ,
ông ta trở thành thường dân, chúng tôi mới có duyên quen
biết. Ông ta là đệ tử của Chương Gia Lạt
Ma, tôi vừa mới tiếp xúc Phật pháp, xem kinh nơi
đó. Ông ta trông thấy, bảo: “Ông xem kinh có liễu giải
hay không?” Tôi nói: “Không được! Tham cứu ý nghĩa
không ra”. Ông ta hỏi: “Có muốn tìm một vị thầy chỉ
điểm hay không?” Tôi hỏi: “Ai?” Ông ta đáp: “Chương
Gia đại sư”. Tôi nói vâng! Tôi cũng chẳng biết
Chương Gia đại sư là ai, do ông ta có lòng tốt,
tôi nói vâng, có người chỉ điểm thật tốt
quá. Ông ta bèn dẫn tôi đến gặp Ngài. Tôi gặp mặt
đại sư, câu đầu tiên là hướng về
Ngài thỉnh giáo, tôi nói: “Thầy Phương đã giới
thiệu kinh Phật cho con, con biết cái hay của Phật
pháp, nhưng có phương pháp nào để con khế nhập
rất nhanh hay chăng?” Tôi nêu câu hỏi như thế. Ngài
nhìn tôi, tôi cũng nhìn Ngài, chúng tôi nhìn nhau tới nửa giờ,
Ngài buông một chữ: “Có!” Tôi đợi cả nửa tiếng
đồng hồ mới được một chữ “có”,
tinh thần phấn chấn trở lại. Ngài lại chẳng
nói gì, lại đợi khoảng sáu bảy phút, Ngài bảo
tôi sáu chữ: “Thấy thấu
suốt, hãy buông xuống”. Phương pháp này của lão
nhân khiến tôi cảm thấy rất kinh ngạc! Đơn
giản như thế, vì sao? Tôi hỏi quý vị, quý vị
hãy nên trả lời, cớ sao phải đợi nửa
giờ rồi mới trả lời? Ước chừng
mười mấy, hai mươi năm sau, tôi mới hoát
nhiên đại ngộ: Thuở ấy, tôi tuổi trẻ,
nhất định là tánh tình bộp chộp, hời hợt,
cho nên thầy nhìn tôi, để tôi buông toàn bộ vọng
niệm xuống, tập trung tinh thần, dùng tâm thanh tịnh
nghe Ngài răn dạy; nhưng Ngài nói “có”, tinh thần của
tôi phấn chấn, chẳng phải là lại bộp chộp,
phập phều ư? Vì thế, lại phải nén xuống,
khiến cho tôi nghĩ đến ý vị giáo học của
cổ nhân, đến lúc đó, tôi mới mấp mé nếm
được đôi chút, ngôn ngữ hết sức đơn
giản. Ngài dạy chẳng sai, từ khi chúng tôi bắt
đầu học kinh giáo cho tới hiện thời,
năm mươi chín năm, giảng kinh cũng đã giảng
được năm mươi hai năm mới hiểu
rõ. Sở dĩ, người hiện tại học những
thứ này nọ chẳng tốt đẹp, đó là lẽ
đương nhiên, vì sao? Hời hợt, bộp chộp,
kém xa tôi, làm sao có thể học được gì? Thuở ấy,
tôi nghĩ mình cũng khá lắm, nhưng trước mặt
Chương Gia đại sư vẫn chưa được,
chưa đủ tư cách, vẫn phải ngồi với
Ngài nửa tiếng, lão nhân gia mới mở kim khẩu. Hiện
thời tìm đâu ra loại học trò này? Nếu học
trò nêu câu hỏi với tôi, mà tôi cả nửa giờ chẳng
trả lời, hắn bèn quay ngoắt mình bỏ đi, điều
gì cũng không nghe nữa! Tôi vẫn còn là khá lắm, còn có
thể thật sự chờ đợi. Vì thế, cổ
nhân dạy học, truyền đạo chẳng giống
người hiện thời, họ thật sự có những
thứ [để trao truyền].
Do vậy,
nói toạc chuyện này ra, với mong muốn hết thảy
chúng sanh sẽ khai minh bổn tâm. Khai minh bổn tâm là đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh; có cùng tri kiến
với Phật, sở chứng hoàn toàn giống như
mười phương chư Phật Như Lai. Đó gọi
là “thành Đẳng Chánh Giác”:
“Đẳng” (等) là bình đẳng, thành Chánh Giác, Chánh
Giác ở đây là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
“Bổn kinh hưng khởi nhân
duyên diệc phục như thị” (nhân duyên hưng khởi
kinh này cũng giống như thế), chẳng khác gì kinh Hoa
Nghiêm và kinh Pháp Hoa, trực tiếp giúp chúng sanh khai minh bổn
tâm, có cùng tri kiến với Phật, chứng đắc Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đây là xếp kinh Vô
Lượng Thọ Kinh bình đẳng với kinh Hoa Nghiêm
và Pháp Hoa. Không chỉ là bình đẳng, mà còn vượt trội,
đến phần sau sẽ trình bày. Hoa Nghiêm và Pháp Hoa dẫn
đường cho chúng ta nhập Vô Lượng Thọ,
điều này có chứng cứ. Kinh Hoa Nghiêm đến cuối
cùng, rành rành là mười đại nguyện vương
của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc.
Do vậy, Vô Lượng Thọ là chỗ quy túc, chỗ tổng
kết của Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Quý vị biết pháp môn này
chẳng thể nghĩ bàn, không thể suy tưởng, điều
này mới khiến cho chúng ta thật sự nhận biết
vị trí của bộ kinh này trong Phật pháp, chẳng kinh
nào có thể sánh bằng! Thật sự hiểu rõ ràng, minh
bạch, mới biết có được kinh này chẳng dễ
dàng! Đã có được là may mắn lắm thay!
Tiếp
đó, lấy Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp
Thọ Kinh để làm thí dụ. Đây là bản kinh A Di
Đà do Huyền Trang đại sư phiên dịch, bản
được tụng niệm phổ biến hiện thời
là do Cưu Ma La Thập đại sư phiên dịch vào thời
Diêu Tần. Huyền Trang đại sư thuộc đời
Đường, [Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp
Thọ Kinh] là bản dịch [kinh Di Đà] đời Đường.
Trong kinh A Di Đà do Huyền Trang đại sư phiên dịch,
có một câu như thế này: “Ngã
quán như thị lợi ích an lạc đại sự nhân
duyên, thuyết thành đế ngữ” (Ta thấy đại
sự nhân duyên an lạc như thế, nói lời đúng thật
này). Trong bản dịch của La Thập đại sư
chẳng có câu này, nhưng trong bản của ngài Huyền Trang
đại sư thì có. Huyền Trang đại sư là trực
dịch, tức là chiếu theo [nguyên văn] kinh văn bằng
tiếng Phạn để dịch thẳng ra, La Thập
đại sư dịch ý, chẳng chiếu theo nguyên bản
kinh văn, Ngài đem ý nghĩa trong bản gốc, hoàn toàn
dùng cách hành văn quen thuộc của người Hán để
phiên dịch, nên chúng ta đọc [những bản kinh do
Ngài dịch] thấy giống như đọc cổ
thư Trung Quốc, hết sức dễ tiếp nhận. “Khả kiến Tịnh Độ
pháp môn chi hưng khởi, chánh đồng ư Hoa Nghiêm, Pháp
Hoa, đồng vi nhất đại sự nhân duyên dã. Hà
dĩ cố?” (đủ thấy pháp môn Tịnh Độ
được hưng khởi, giống hệt như Hoa
Nghiêm và Pháp Hoa, cùng vì một đại sự nhân duyên. Vì
sao vậy?). Lại thêm một câu hỏi “vì sao?”. Vì sao mà
đã hết thời gian rồi? Tôi quên khuấy thời
gian đã hết rồi. Ngày hôm nay chúng ta học tập tới
đây, ngày mai sẽ học tiếp.
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
phần 5
hết
[1] Tăng Quốc Phiên (1811-1872) là một vị
văn thần, chính trị gia, quân sự gia, lý luận gia,
và văn học gia lỗi lạc đời Thanh. Ông sinh tại
Tương Hương, phủ Trường Sa, tỉnh Hồ
Nam, vốn có tên là Tử Thành, tự là Bá Hàm, hiệu Địch
Sanh, thụy hiệu Văn Chánh. Ông vốn là cháu đời
thứ bảy mươi của Tăng Tử. Ông nổi
tiếng thông minh, năm mười lăm tuổi dự
thi khoa Đồng Tử đã đỗ hạng bảy,
thi Hương đậu cao, nhưng thi Hội nhiều lần
không đậu, mãi đến năm Đạo Quang 18
(1838) mới đỗ khoa thi Hội, vào thi Đình đỗ
Tiến Sĩ năm ấy, được bổ làm Hàn Lâm
Viện Thứ Cát Sĩ. Khi Hồng Tú Toàn làm loạn, lập
ra Thái Bình Thiên Quốc tiến chiếm Giang Ninh, gần
như chiếm trọn miền Giang Nam, Tăng Quốc
Phiên đã gom góp học trò, thân thích, bạn bè để thành
lập đoàn quân Sở Dụng chống cự Thái Bình
Thiên Quốc, huấn luyện đoàn quân ô hợp này trở
thành một lực lượng quân sự đáng nể. Trải
qua bao nhiêu khó khăn, cuối cùng ông đã đại phá quân
Thái Bình Thiên Quốc, tận diệt loạn đảng. Do
vậy, ông được phong tước Thái Tử Thái Bảo,
bổ làm tổng đốc tỉnh Trực Lệ, sau
đó trở về làm Tổng Đốc Lưỡng
Giang, làm quan tới chức Vũ Anh Điện Đại
Học Sĩ, tước phong Nghị Dũng Hầu. Về
phương diện tư tưởng, ông đóng góp rất
lớn trong sự hình thành trường phái văn học
Tương Hương, gây ảnh hưởng rất lớn
đến những nhà tư tưởng cuối đời
Thanh như Nghiêm Phục, Đàm Tự Đồng,
Lương Khải Siêu v.v... Ông trước rất phong
phú, sau khi mất, các môn đệ biên tập trước
tác của thầy thành bộ Tăng Văn Chánh Công Toàn Tập.
[2] Ngài Huệ Viễn
(523-592) họ Lý, người xứ Hoắc Tú, Trạch
Châu, vốn quê ở huyện Đông Hoàng, tỉnh Cam Túc.
Ngài cùng với Trí Giả đại sư của tông Thiên
Thai, Cát Tạng đại sư của tông Tam Luận
được tôn xưng là “Tùy
đại tam đại
sư” (ba vị đại sư đời Tùy). Ngài
thông hiểu kinh luận rất rộng, trước tác chú
sớ rất nhiều, nên được tôn xưng là Sớ
Vương, hoặc Thích Nghĩa Cao Tổ. Ngài là người
chú thích kinh Vô Lượng Thọ đầu tiên (bộ Vô
Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ). Ngài cũng là một
trong những người lập thuyết sơ khởi
cho tông Tịnh Độ với giáo thuyết Tam Tịnh
Độ gồm Sự Tịnh Độ, Tướng Tịnh
Độ và Chân Tịnh Độ. Do vậy, có những
người chủ trương Ngài mới đáng
được coi là Sơ Tổ Tịnh Độ thay vì
ngài Lô Sơn Huệ Viễn vì Ngài đã xác lập nền tảng
và hệ thống cho tư tưởng Tịnh Độ.
Quan điểm này chỉ chú trọng đến phương
diện giáo thuyết mà quên đi một sự kiện là
các tổ sư Tịnh Độ được tôn là tổ
sư vì có công hoằng dương, phổ biến Tịnh
Độ, đồng thời còn là những vị đại
hành giả thành tựu lỗi lạc trong Tịnh Tông. Ngoài
những cống hiến về giáo nghĩa Tịnh Độ,
ngài Huệ Viễn còn đặc biệt nghiên cứu Địa
Luận, Ngài được coi là khai tổ của phái
Tương Châu Nam Đạo trong Địa Luận Tông.
Tác phẩm Hoa Nghiêm Kinh Yếu Nghĩa của Ngài cũng rất
được tông Hoa Nghiêm tôn trọng. Những trước
tác nổi tiếng nhất của Ngài là Đại Thừa
Nghĩa Chương, Thập Địa Kinh Luận
Nghĩa Ký, Hoa Nghiêm Kinh Sớ, Đại Bát Nhã Kinh Nghĩa
Ký, Thắng Man Kinh Nghĩa Ký, Vô Lượng Thọ Kinh
Nghĩa Sớ, Duy Ma Kinh Nghĩa Ký v.v... Ngài cũng hết sức
can đảm vì đã dám chất vấn, quở trách Châu
Vũ Đế khi nhà vua chủ trương hủy diệt
Phật pháp. Do Ngài trụ tại chùa Tịnh Ảnh nên
người ta thường gọi Ngài là Tịnh Ảnh Huệ
Viễn và bộ Vô Lượng Thọ Kinh Nghĩa Sớ
thường được gọi tắt là Tịnh Ảnh
Sớ.
[3] Kim Cang thượng sư (Vajra Guru): Mật
Tông dùng Kim Cang làm biểu tượng, tượng trưng
cho chân tâm vĩnh viễn bất sanh, bất
diệt, có thể xuyên thấu tất cả mọi thứ.
Thượng sư (Guru) vốn có nghĩa gốc là một
vị thầy đầy kinh nghiệm trong một lãnh vực
nào đó, có thể hướng dẫn học trò không sai lạc.
Về sau, chữ Guru thường được dùng
để chỉ một bậc thầy hướng dẫn
tâm linh. Gu có nghĩa là tối tăm, Ru là một ánh sáng.
Như vậy, Guru là “ánh sáng dẫn đường trong
đêm tối”. Ngoài chữ Thượng Sư, các danh
xưng Hòa Thượng, A Xà Lê, Lạt Ma, A Khương
(Achan, Ajahn, Acharn, biến âm của chữ Acariya) đều
được coi là tương đồng với danh
xưng Thượng Sư.
[4] Bổn Tôn (Ishta-devata, hoặc Yidam) là một
thuật ngữ trong Mật Tông, là đối tượng
Thiền Quán của người tu Mật Pháp. Bổn Tôn
thường là Phật, Bồ Tát, Minh Vương v.v... tức
là vị đã nói ra bài chú hay Mật pháp ấy. Thông thường,
các vị nữ Bổn Tôn sẽ được gọi là
Phật Mẫu, Không Hành Mẫu (Dakini), hoặc Minh Phi. Trong
Mạn Đà La, nếu Bổn Tôn được mô tả
dưới dạng an tường, ngồi trong tư thế
Thiền Định sẽ gọi là Tịch Tĩnh Tôn, còn
nếu hiện tướng dữ dội, đáng sợ
thì gọi là Phẫn Nộ Tôn.
[5] Theo truyền thuyết, Thần Nông, Phục
Hy và Hoàng Đế được gọi là Tam Hoàng. Chữ
Thị chỉ các bộ tộc của họ. Phục Hy
còn gọi là Bào Hy, Hy Hoàng, Hoàng Hy, Thái Hạo v.v... cùng với
bà Nữ Oa được coi là thủy tổ của loài
người. Ông sống ở khu vực Lũng Tây, đóng
đô ở Uyển Khưu (nay thuộc Hoài Dương, tỉnh
Hà Nam), có công dạy dân nấu nướng, đan lưới,
đánh cá, bắt thú, thiết lập quan hệ hôn nhân, và
chế ra Bát Quái. Cũng có thuyết nói Phục Hy chính là Bàn
Cổ. Theo huyền sử, mặt đất bị lụt
lớn, chết sạch, Phục Hy bèn cùng Nữ Oa nặn
đất thành hình người, hà hơi cho họ biến
thành người sống, nên Phuc Hy và Nữ Oa được
tôn là thủy tổ loài người.
Thần Nông là người phát minh y
dược, nếm trăm thứ cỏ cây để chế
ra thuốc, dạy dân canh tác, sáng chế ra lưỡi cày
và đồ gốm; do vậy, được coi là thủy
tổ Đông Y và nông nghiệp Trung Hoa. Ông được
tôn xưng là Dược Vương, Ngũ Cốc
Vương. Ông thường được mô tả có diện
mạo kỳ quái, thân thể còm cõi, đầu có bướu,
trừ chân tay và đầu ra, toàn thân trong suốt, có thể
thấy rõ nội tạng. Huyền sử Trung Hoa nói hậu
duệ của ông là hai bộ lạc của Viêm Đế
và Hoàng Đế. Về sau, Hoàng Đế đánh bại
Viêm Đế, xưng là Thiên Tử. Xi Vưu cũng là hậu
duệ của Thần Nông, sau khi bị Hoàng Đế
đánh bại, phải chạy về phía Tây, các sắc dân
người Miêu ở vùng Ngạc, Tương, Quý Châu và
người Đại Hàn thường tự nhận là hậu
duệ của Xi Vưu.
Hoàng Đế được coi là tổ
tiên của dân Hoa Hạ, thuộc họ Công Tôn, do sống ở
gò Hiên Viên nên còn gọi là Hiên Viên Thị. Thoạt đầu
sống ở gần sông Cơ Thủy, nên về sau đổi
thành họ Cơ, đặt tên nước là Hữu Hùng
nên còn gọi là Hữu Hùng Thị. Ông sinh ra ở Thọ
Khưu (gần Khúc Phụ, Sơn Đông ngày nay), sau di
cư đến vùng Trác Lộc. Thoạt đầu, liên kết
với Viêm Đế đánh bại Xi Vưu, giết chết
Xi Vưu tại cánh đồng Trác Lộc, thống nhất
các bộ lạc tại Trung Nguyên. Ông ta tiến vào khu vực
của dân Cửu Lê, lên đỉnh Thái Sơn, hội họp
các bộ lạc, cử hành lễ Phong Thiện, chính thức
trở thành Cộng Chủ của toàn vùng Trung Nguyên. Đột
nhiên, trên trời hiện ra hai con vật sắc vàng óng, nên
người ta nói vua lấy đức hạnh của
đất để xưng đế. Do vậy, tôn
xưng vua là Hoàng Đế.
[6] Nghiệt (孽) ở đây là đầu mối tội
chướng, không phải “nghiệp”.
[7] Chữ
Thân Vương thường được dùng để
gọi các hoàng tử, hay anh em ruột của hoàng đế.
Quy chế này bắt đầu từ thời Ngụy - Tấn,
về sau, tước vương được chia làm hai
loại là Thân Vương và Quận Vương. Thoạt
đầu, Quận Vương chuyên dành để phong cho
con trai của Hoàng Thái Tử, về sau, các trọng thần
cũng được phong tước Quận
Vương. Quy định về danh xưng cũng nghiêm
ngặt hơn: Thân Vương chỉ có một chữ, Quận
Vương dùng hai chữ. Chẳng hạn, Đường
Duệ Tông trước khi lên ngôi là Tương
Vương, đại thần Quách Tử Nghi là Phần
Dương Vương. Đến đời Thanh, các thân
vương còn được gọi kết hợp giữa
tiếng Hán và tiếng Mãn Châu thành Hòa Thạc Thân
Vương (Hošo i cin wang).